Việt Nam có nguy cơ vỡ nợ như Lào?

- Quảng Cáo -

Câu trả lời là có, nếu như chính phủ vẫn tiếp tục điều hành theo kiểu ò e í e kèn tang, vặt lông đừng kêu như hiện tại. Không riêng các chỉ số kinh tế có vấn đề, mà các chỉ số xã hội, chỉ số an toàn tâm lý của người Việt cho đến lúc này có lắm vấn đề để lo ngại. Và, nếu tiếp tục điều phối liều lĩnh thì việc vỡ nợ, đi đến phá sản diện rộng là thấy trước mắt.

Vì sao nói rằng nguy cơ phá sản của Việt Nam rất cao? Thậm chí cao hơn Lào nhưng sức trụ cũng vững hơn? Vì Việt Nam là nước độc tài, Lào cũng vậy, cũng hệ thống Cộng sản, nhưng quản lý đất đai cũng như nhu cầu, mối quan hệ trưng dụng tài sản công trong tài nguyên, khoáng sản của chính phủ Lào thấp hơn chính phủ Việt Nam rất nhiều. Điều này dẫn đến hệ lụy các doanh nghiệp, doanh nhân Lào không mấy bận tâm về việc tích cóp tài sản theo kiểu các “đại gia” Việt Nam. Nhưng, tuy rằng các đại gia Lào có mã lực tiền tệ thấp hơn các doanh nhân Việt cỡ nào đi nữa thì họ vẫn có một thứ mà hầu hết đại gia Việt không có: Các chữ nhà giàu, hoặc đại gia, doanh nhân đích thực.

Sở dĩ phải lan man đến mấy chữ đại khái như là “đại gia”, “doanh nhân” trong việc suy đoán và phân tích nguy cơ phá sản giữa Lào và Việt Nam cao thấp ra sao là vì, ở cả hai quốc gia này, doanh nhân có tác động và có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Vì hầu hết doanh nhân đều là người của Đàng và là những con thịt của đảng, chính phủ. Vì sao?

- Quảng Cáo -

Vì cho đến thời điểm này, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều có nền công nghiệp thấp kém, tệ hại, ngay cả đàn anh như Trung Quốc khi bước ra quốc tế, nền công nghiệp của họ nhanh chóng được gắn nhãn mác Giả Cầy hoặc Đểu. Với các nước Cộng sản xã hội chủ nghĩa đàn em thì càng lạc hậu, thê thảm hơn, Lào, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu Ba là những điển hình. Và, kinh tế các quốc gia này hầu như vẫn dựa vào ba mũi nhọn chính gồm khai thác tài nguyên, nông – ngư nghiệp và công nghiệp không khói, tức du lịch.

Mảng nông ngư nghiệp hầu hết các quốc gia như Lào, Việt Nam đều đang rơi vào tình trạng đuối sức, bởi cả ngư và nông nghiệp đang đối mặt với nạn môi trường bị xuống cấp, bội thực hóa chất và tình trạng nhiễm bẩn của đất, nước. Sản phẩm nông, ngư nghiệp của các nước xã hội chủ nghĩa đều có chung đặc điểm là sản xuất còn thô sơ về mặt công nghệ nhưng lại không an toàn về mặt sử dụng hóa chất. Điều này khiến cho hầu hết nông, hải sản của các quốc gia này bấp bênh trên thị trường quốc tế.

Công nghiệp không khói như một sự thay thế và bù đắp cho công nghiệp nặng vốn càng làm càng thua lỗ và nông nghiệp đang bấp bênh. Tuy nhiên, cũng chính vì nền công nghiệp không khói với các dịch vụ siêu lợi nhuận từ việc kinh doanh phòng ốc, tổ chức tour cho đến những dịch vụ tế nhị, nhạy cảm đã giải quyết được một lượng lớn lao động đang vào tuổi sung sức nhưng không có kiến thức, kĩ năng hay kĩ thuật nào ngoài kĩ thuật bán dâm, làm dịch vụ cò cuốc mãi dâm. Nền công nghiệp này cũng góp phần không nhỏ vào các đợt sóng bất động sản tại Việt Nam, tạo ra các tay nhà giàu cự phách nhưng kì thực, họ là những kẻ làm thuê không công cho chính phủ và đảng Cộng sản. Bởi cho đến thời điểm này, giả sử giá bất động sản tuột dốc, thì điều đó chứng tỏ rằng chính phủ, đảng và nhà nước Cộng sản đang đánh mất thực lực kinh tế. Ngược lại, giá bất động sản càng tăng bao nhiêu, thì đối tượng giàu có cuối cùng vẫn là đảng Cộng sản chứ chẳng có doanh nhân nào cả!

Vì các mối quan hệ để thao túng thị trường, để trở thành “đại gia” để lập nên “đế chế kinh tế” trong “thị trường Việt Nam và thế giới” tại Việt Nam đều dựa vào gốc gác, lý lịch, dây mơ rễ má với đảng Cộng sản. Hãy nhìn tất cả những tay giàu cộm cán, được xem là đại gia bậc nhất Việt Nam hiện nay thử hỏi họ là ai? Họ có liên quan gì đến đảng Cộng sản và họ có trở nên giàu có như vậy nổi không nếu sau lưng họ không có ô dù, không có đảng chống lưng? Và bản chất của tư sản xã hội chủ nghĩa, tức đại gia của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một loại công nhân làm thuê không lương, được vỗ béo bằng của ngon vật lạ cho đến lúc cần dùng đến thì mang ra thịt.

Vì sự giàu có của hầu hết “đại gia” Việt Nam là nhờ dựa vào đất đai, bất động sản, từ Vượng Vin cho đến Trịnh Văn Quyết, Lê Thanh Thản… và xa hơn một chút là Tăng Minh Phụng, Phạm Huy Phước ở những năm 1990 thế kỉ trước đều giàu lên nhờ  vào đất đai. Mà đất đai, theo Hiến Pháp thì của ai? Nó là của toàn dân, do nhà nước quản lý dưới sự lãnh đạo tối cao của đảng Cộng sản. Như vậy, những con số vài ngàn tỉ, vài chục ngàn tỉ đồng, thậm chí vài tỉ đô la có được là nhờ các mối lợi tức có nguồn gốc bất động sản, mà bản chất của nó là mượn lực nhà nước, đảng để bóp nghẹt người dân, lấy ruộng, lấy đất với giá vài ổ bánh mì, tô son trát phấn bằng các dự án rồi thổi giá lên thành đất vàng… Cuối cùng, họ giàu có, xa hoa, được công kênh thuộc vào hàng đại gia lớn này nọ… Kỳ thực, họ là những người làm thuê, trong một chừng mực nào đó, doanh nhân là những con chó giữ cừu cho ông chủ Cộng sản. Khi cần thiết, mọi thứ lại trở về với chủ hợp hiến – với danh nghĩa đại diện nhân dân – của nó, đó là Đảng, vậy thôi!

Và với tất cả những yếu tố trên cho thấy bản chất của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể sinh ra loại tư bản rừng rú với bản năng ăn thịt đồng loại không thương tiếc và bất chấp để đạt mục đích kinh tế để rồi ngoài loại tư bản rừng rú này có thêm những lớp doanh nhân súc vật, sẵn sàng đạp qua mọi tiêu chuẩn và giới hạn đạo đức để đạt mục đích. Và đây là điều mà đảng Cộng sản cần nhất, bởi họ cần một đám lâu la biết làm kinh tế, biết tích cóp, biết cắn xé, biết phân chia để cuối cùng là phục vụ cho đảng ưu tú và tinh hoa. Hay nói khác đi, mọi giá trị đều được phân phát từ/bởi đảng tinh hoa, ưu tú.

Và trong trạng huống nửa nạc nửa mỡ, nửa đại gia nửa đầy tớ của giới tư bản xã hội chủ nghĩa như thế, các “đại gia” còn cách nào khác ngoài việc tuồn tài sản ra nước ngoài để đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản nếu có thể?! Chính vì vậy mà hầu hết chỗ đáp an toàn sau khi hạ cánh của quan chức và giới nhà giàu có dính đến chính trị là nước ngoài, các quốc gia tư bản. Nhưng, chưa chắc đã thoát thân ra được bên ngoài để mà hưởng thụ những gì đã lót sẵn trong cái ổ tiền bạc ấy. Trịnh Xuân Thanh và gần đây bà Hằng, vợ ông Dũng lò vôi bị cấm xuất cảnh, Trịnh Văn Quyết trước khi bị bắt, hàng loạt quan chức và “đại gia” trước khi bị bắt cũng đều vậy. Chỉ cần một điều chỉnh nhỏ để tạo thế sập bẫy, bao nhiêu “đại gia” cho đủ cái bàn tiệc xã hội chủ nghĩa?!

Và đây cũng là cơ sở vững chắc để tin rằng đảng Cộng sản Việt Nam rất giàu có, bởi họ luôn có món “tiền, tài sản trong nhân dân”, đặc biệt là các nhân dân được gọi bằng mỹ từ “đại gia”. Nhưng, đó cũng là mối nguy khi mọi cọng lông trên thân con vịt Nhân Dân bị vặt sạch, không còn gì để vặt, mọi thứ trở nên khủng hoảng và nội bộ đảng mạnh ông nào ông ấy chạy (thực tế, mỗi đảng viên là một tư bản kếch xù, tiền của họ đều dự nguồn từ nhân dân), mọi thứ trở nên hỗn loạn một khi không còn gì để chia giữa các phe nhóm. Với trạng huống này, vỡ nợ công là rất dễ, bởi nợ công cũng đã được chia không thương tiếc vào túi của thành phần ưu tú, xuất sắc này rồi.

Đừng nghĩ rằng mọi thứ thấy được là bền vững, chỉ riêng việc xăng và khí đốt tăng giá không thôi, đã có hàng tá hệ lụy kéo theo, và nguy cơ loạn mười hai sứ quân hiện đại cũng chẳng thấp chút nào. Khi mà các nhóm cát cứ vùng miền của xã hội đỏ, xã hội đen nổi lên theo trào lưu mở dịch vụ du lịch, lấn chiếm đất nông nghiệp, lừa đảo mua bán đất ngày càng nhiều. Như dân gian gần đây có câu “Đất tăng giá đón du lịch, nhưng chưa thấy du lịch đã thấy du côn!”.

Việc củng cố kinh tế và an ninh quốc phòng, an ninh tâm lý cũng như làm sạch bộ máy quản lý, triệt tiêu tham nhũng là một việc giữ mạng sống giữa ngàn cân treo sợi tóc lúc này, đừng tưởng đơn giản!

- Quảng Cáo -