Đàn cá sẽ chết khi dòng sông nghẽn mạch giữa hàng lớp thủy điện dàn trận từ Lan Thương về Lào, Campuchia rồi kiệt sức ở Cửu Long xa xôi.
Lan Phương – BBC
Khác với Sài Gòn và Phnom Penh, và tựa như Bangkok, Vientiane gần như vắng bóng hành khất. Trong suốt thời gian long nhong ở thủ đô Vạn Tượng, chỉ duy nhất mỗi lần tôi thấy một người khiếm thị vịn vai cô con gái nhỏ đang lần dò băng ngang qua đường Lane Xang – trước khu Chợ Sáng.
Hình ảnh này khiến tôi nhớ đến những những người mù trong quãng đời thơ ấu của mình. Họ thường ngồi ở cầu thang chợ (Đà Lạt) gẩy những tiếng đàn buồn bã, và cất tiếng những lời ca u uất, giữa đám đông hờ hững.
Hơn năm mươi năm đã trôi qua rồi. Tôi cứ tưởng là không còn ai lê la hát xẩm trên thế gian này nữa chứ. Chúng ta đã bước vào thế kỷ XXI lâu lắm rồi mà!
Lại có hôm, ở Phnom Penh, nằm chờ hoài mà trời vẫn không chịu sáng. Chán, tôi mở cửa khách sạn tản bộ dọc theo bờ sông. Đi mãi trời mới hừng đông. Trong ánh nắng mai yếu ớt đầu ngày, tôi ngạc nhiên khi thấy những chiếc thuyền con mong manh (cùng những mái chèo mỏng mảnh) đang lững lờ trên dòng Mê Kông bao la và trầm lặng.
Bất giác, tôi bật hát khẽ những lời ca (thiết tha) của Văn Phụng năm nào:
Ai qua bến Đà giang cho tôi nhắn vài câu, thương về mái tranh nghèo bên hàng cau. Chia ly đã từ lâu. Ôi mong nhớ làm sao, bao nhiêu bóng người thân mến năm nào. Tôi thương mái chèo lơi, bên manh áo tả tơi, những người lái con đò trên dòng nước.
Tôi không biết bến Đà Giang ở nơi nao, và cứ ngỡ rằng những “mái tranh nghèo bên hàng cau” chỉ là hình bóng xa xôi (thuộc Thời Trung Cổ) vẫn còn rơi rớt đâu đó – trên đất nước mình – vào hồi đầu thế kỷ trước mà thôi. Có ngờ đâu “những mái chèo lơi” vẫn lặng lẽ khua nước ngay giữa Biển Hồ, và trên vô số sông rạch của Cambodia, cho mãi đến bây giờ.
Điều bất ngờ hơn nữa là chủ nhân của “những manh áo tả tơi” này, phần lớn, lại không phải là dân bản xứ. Họ chính là những đồng hương khốn khổ của tôi, chứ nào có phải là ai xa lạ. Theo tường trình (“The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia”) của MIRO – Minority Rights Organization – vào năm 2014 có khoảng năm phần trăm, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở đất Miên. Đây là sắc dân thiểu số đông nhất ở đất nước này.
Hầu hết họ đều là dân ngụ cư, không khai sinh, không căn cước, không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ xã hội nào, và (tất nhiên) không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai gì ráo trọi. Bởi vậy, phần lớn kiều bào ở Miên (theo như cách gọi rất lịch sự của Đại Sứ Quán Việt Nam ở Phnom Penh) đều sống lêu bêu – rầy đây mai đó – trên những túp lều nổi xung quanh Biển Hồ, hoặc dọc theo những nhánh sông phụ thuộc.
Họ sống làm sao?
Cũng giản dị thôi. Chỉ cần một chiếc thuyền con, cùng một mái chèo, và hai ba người miệt mài quăng chài hay thả lưới suốt ngày – bất kể nắng mưa – là có cá ăn, phần dư dôi cũng đủ để đổi lại một hai ký gạo, ít mắm muối, và vài ba xị đế.
Y tế, giáo dục, thể thao, giải trí … đều là những khái niệm mơ hồ – nếu chưa muốn nói là xa xỉ – và chả ai có bao giờ nghĩ đến. Đời sống giản dị, và giản lược, từ tay đến miệng thế thôi. Có lẽ không nơi nào trên trái đất này mà đám Việt kiều trông lam lũ và thảm thương đến vậy!
Cũng đã đôi lần (vào thập niên 1970) cái đám người trôi sông lạc chợ này cũng đã đàn đúm dắt díu nhau tìm về tổ quốc nhưng rồi họ nhận thức ra ngay rằng quê hương cũng không phải là nơi nương náu được nên rồi lại đành phải tiếp tục tha phương cầu thực. Ở xứ người họ bị gọi một cách khinh miệt là Duồn: “Tụi Duồn về quê tụi bay hết đi.” Qua bên kia biên giới thì họ bị chửi … là Miên: “Đám Miên chạy qua đây làm gì?”
Tuy bị chính quyền và dân chúng của cả hai nước Việt/Miên bạc đãi nhưng bù lại họ nhận được thiên nhiên dung chấp. Sự bao dung này, tiếc thay, nay không còn nữa. Từ Bankok, vào hôm 25 tháng 12 năm 2015, thông tín viên Lan Phương (BBC) vừa buồn bã cho hay:
“Những người đàn ông giăng lưới ở Đồng Tháp không hiểu vì sao năm nay không có nước lên xứ đồng bằng.
Cá linh đi xa dần, đắt đỏ như món đặc sản không biết tìm đâu ra. Lưới cá treo ở góc nhà, quên mất đã có thời Cửu Long cá nhiều đến mức ứ đầy thủng lưới.
Người nông dân không biết diễn tả điều gì đã hủy hoại sự sung túc một thời trên đồng bằng châu thổ của mình. Dân ở Biển Hồ (Campuchia) cũng chỉ biết im lặng nhìn vào mắt lưới trống rỗng lập lờ dưới nước mùa thiếu cá về.”
Qua lại hồ Tonlé Sap, và lui tới những sông rạch dọc ngang của xứ Chùa Tháp – cả năm qua – nơi đâu tôi cũng thấy những ánh mắt lo âu cùng với những lời hỏi han (nghe) như những tiếng than dài: “Không biết tại sao mà cá mỗi năm một ít, ông à!”
Tôi im lặng, tất nhiên, dù thiệt tình thì lờ mờ có biết nguyên do – sau khi đọc được Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng do nhà Văn Nghệ xuất bản năm 2000. Tác phẩm này của Ngô Thế Vinh vừa được nxb Giấy Vụn tái bản, lần thứ ba, vào năm 2014. Xin xem qua đôi lời giới thiệu nội dung của nhà báo Ngô Nhân Dụng :
Ðầu mối tai họa này là chính sách khai thác điện lực và dẫn thủy nhập điền của chính quyền Cộng sản Trung Quốc. Sông Mekong, tại Trung Quốc mang tên là Lan Thương (Lancang, 澜沧) chảy qua Tây Tạng và các tỉnh Thanh Hải, Vân Nam, trước khi đổ xuống phía Nam. Theo tạp chí World Rivers Review của cơ quan Sông quốc tế (International Rivers, IR), thì vào năm 2014, Trung Cộng đã xây dựng bảy đập thủy điện lớn ở đầu nguồn sông Mekong thuộc nước Tàu, con sông phát nguyên từ Tây Tạng chảy xuống Biển Ðông nước ta. Họ sẽ xây thêm 21 đập ngăn nước lớn khác trong 10 năm tới. Các nước hạ nguồn cũng bắt chước xây các đập nước khác; với dự án xây 11 con đập nữa.
Nhưng tai họa lớn nhất là nước biển lấn dần vào đất liền thì chỉ dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long gánh chịu. Ðập Don Sahong đang xây ở Hạ Lào, nhằm cung cấp điện cho Lào và Thái Lan sẽ ảnh hưởng lớn trên đời sống dân Campuchia và miền Nam Việt Nam.
Trong cuốn sách biên khảo viết dưới hình thức vừa tiểu thuyết vừa ký sự, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng, Bác Sĩ Ngô Thế Vinh đã mô tả hành động của chính quyền Trung Quốc: “Vào Tháng Tư năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Cửu Long nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Ðiện, Thái và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Tư Mao xuống Chiang Khong Chiang Sean Bắc Thái xuống thẳng tới Vạn Tượng. Trong khi Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài.”
Thảo nào mà ở Phnom Penh đã có kẻ bỏ lại “những mái chèo lơi” cho sông nước, chỉ còn khoác mỗi “manh áo tả tơi” thất thểu bước lên bờ, rồi nằm dài giữa công viên phố thị.
Khi mà ở thượng nguồn sông Tiền, và sông Hậu ngư dân phải đi ăn xin thay vì đi chài lưới thì ai cũng có thể tiên đoán được hậu vận của hàng chục triệu người dân Việt – ở Đồng Bằng Sông Cử Long – mà không cần phải là thầy bói./.