Kính thưa quý thính giả, phần đầu cuộc thảo luận giữa nhà báo Trần Quang Thành và T/S Phạm Chí Dũng được gửi đến quý vị trong mục này kỳ vừa qua đã đánh giá về cuộc kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đối với nhà nước CSVN đầu tháng 2 vừa rồi và những món nợ nhân quyền của nhà nước này đối với nhân dân VN cùng cộng đồng quốc tế đã tích luỹ từ mấy thập kỷ qua. Những món nợ nhân quyền đó đã đưa đến hậu quả như thế nào đối với đất nước và dân tộc VN mà người ta có thể cân đong đo đếm được qua sự so sánh với các trường hợp tương tự ?
Mời quý vị nghe sau đây phần hai cuộc điện đàm giữa nhà báo Trần Quang Thành và Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, bàn về vấn đề này.
TQT : Thưa nhà bình luận Phạm Chí Dũng, Tôi muốn nêu lên một so sánh. Cách đây mấy năm khi Việt Nam là Chủ tịch của ASEAN, ông Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã được cử sang Myanma để thuyết phục Myanma cải thiện tình hình nhân quyền nếu như Myanma muốn không bị thế giới cô lập, không muốn khối ASEAN gặp khó khăn. Sau lời khuyên đó Myanma làm rất nhanh chóng. Chuyển hướng từ một nước được gọi là đóng cửa, độc tài, chuyên chế, không dân chủ, không tự do. Bây giờ trở thành một nước điển hình về dân chủ, tự do. Trong đó người đi khuyên là ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đất nước do ông điều hành hiện nay có lẽ nhân quyền đứng ở gần bét của khối ASEAN cũng như trên toàn thế giới. Ông so sánh như thế nào về ý niệm của tôi?
PCD : Đúng là Myanma phải cảm ơn Việt Nam. Tại vì nhờ có lời khuyên của Việt Nam gián tiếp hay trực tiếp hay là với một tư cách như thế nào đó người dân Myanma cũng đã tự thân thay đổi và thay đổi một cách ngoạn mục, kỳ diệu chứ không phải như Việt Nam. Và cho đến bây giờ giữa Myanma và Việt Nam đã có một độ chễ khá xa rồi. Có nghĩa là người Myanma họ đã đi trước Việt Nam mặc dù họ mới mở cửa kinh tế vào những năm 1990 như Việt Nam thôi, nhưng về quan điểm chính trị và dân chủ mở rộng họ đã vượt xa Việt Nam và tôi không biết tâm trạng của những người như ông Nguyễn Tân Dũng như thế nào trong việc đưa ra lời khuyên như vậy. Và ông Nguyễn Tấn Dũng theo tôi cũng là một người rất thành thực năm 2006 khi ông nhận chức Thủ tướng ông tuyên bố là ông yêu sự trung thực và ghét sự giả dối. Tôi cho đó là một lời nói thành thực. Chỉ có điều một lời nói thành thực nó chỉ có ý nghĩa thực tế trong việc chứng nghiệm thực tế mà thôi. Thực tế của Việt Nam từ đó đên giờ là ngược lại với Myanma.
Những người như ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra lời khuyên như vậy nhưng mà cách đó chỉ là một cách nói đãi bôi mà người Hà Nội hay dùng. Xin lỗi tôi nói đến một bộ phận dân chúng Hà Nội và quan chức Hà Nội ngày nay. Họ hay đãi bôi. Họ cứ nói để nói. Điều đó phản ảnh ngược lại cái tâm thế là lòng thành chính trị. Lòng thành chính trị là một khái niệm sau này người ta nói về Tổng thống Thein Sein của Myanma. Ông Thein Sein xuất thân từ đâu chúng ta đều biết. Từ một đại tướng quân đội. Từ một thủ hạ thân tín của ông Than Shwe và ông Thein Sein cũng là một trong những người bị xem là chịu trách nhiêm đối với bàn tay vấy máu trong cuộc đàn áp cách mạng diễn ra những năm trước dưới chế độ quân phiệt ở Myanma. Nhưng đến năm 2011 thì mọi chuyện thay đổi hẳn tuy lúc đó người ta vẫn chưa hy vọng được nhiều. Việc giải chê đôi với bà Aung San Suu Ky, thủ lãnh của đảng đối lập là Liên đoàn quốc gia vì dân chủ ở Myanma đã cho thấy một tín hiệu đổi mới nhất định. Nhưng mà những đợt thả tù nhân chính trị sau đó mới ấn tượng, rất ấn tượng.
Từ năm 2011 đến 2013 nếu tôi nhớ không nhầm thì chế độ của ông Thein Sein đã thả hơn 300 tù nhân chính trị mà Việt Nam gọi là tù nhân lương tâm. Còn nhiều hơn cả số tù nhân lương tâm đang tồn tại ở Việt Nam hiện nay theo báo cáo của các tồ chức nhân quyền là từ 150 đến hơn 200 người. Và đến cuối năm 2013 thì Myanma thả hết tù chính trị, thả hết, thả sạch, không còn một ai. Chúng ta nhìn những hình ảnh tù nhân chính trị ôm gói xách đi ra khỏi nhà tù với khuôn mặt rạng rỡ, hớn hở. và không ít người trong đo đã tỏ lòng cảm phục đối với Tổng thống Thein Sein vì ông đã giữ đúng lời hứa. Quan trọng củA một nhà lãnh đạo không chỉ họ đưa ra lời hứa mà họ còn biết giữ lời hứa. Lời hứa của ông Thein Sein được thực hiện, được đưa ra vào năm 2012 và đặc biệt vào năm 2013 khi ông đến Hội đồng châu Âu, ông đến Nghị viện châu Âu làm việc. Và ông đến nước Anh được đón tiếp như một nguyên thủ. Lúc đó bà Aung San Suu Ky sang Washington đã được Tổng thống Onbama đón tiếp cũng như một nguyên thủ quốc gia. Chúng ta thấy vị trí của Myanma như thế nào trên trường quốc tế.
Cuối năm 2012 Onbama đã đên Myanma. Tuy rất ngắn thôi chỉ có 1 ngày rưỡi dạo chân trên đất nước Myanma. Và lần đầu tiên sau gần một nửa thế kỷ một Tổng thống Hoa Kỳ đặt chân đến Myanma cho thấy sự quan tâm của Hoa Kỳ, của phương Tây, đặc biệt là giới tư bản phương Tây vào Myanma là lớn như thế nào. Và có một hệ quả rất tích cực tiếp đến luôn sau đó là câu lạc bộ Paris xóa nợ cho Myanma 6 tỷ đô-la. Sau đó là một loạt nước như Na Uy, Thụy Sĩ, Nhật Bản và gần đây nhất là Đức liên tiếp xóa các khoản nợ cho Myanma. Người Myanma họ không có nợ nhiều như Việt Nam. Không nợ chồng, nợ chất, nợ đẩy đến cả tương lai cho Việt Nam. Nhưng mà đối với một đát nước nghèo như vậy thì khối xóa nợ từ 8 đến 10 tỷ đô-la là rất đáng kể. và nó giúp cho việc phục hồi kinh tế. Cho đến nay do việc cải thiện nhân quyền mà anh Trần Quang Thành vừa đề cập, mà nhà nước Myanma được hứa hẹn đặc cách tham gia vào Hiệp định kinh tế xuyên Thái Bình Dương IPP. Chứ không phải trải qua những rào cản hết sức gay gắt và thử thách như Việt Nam hiện nay. Họ đã thành công. Họ đã nhận được một điều gọi là nhân quả. Trong khi đó nhân qủa nhân quyên ở Việt Nam như thế nào?
Suốt từ năm 2009 đến giờ nhà nước Việt Nam cải thiện được cái gì gọi là nhân quyền? Hay là sau khi được rút ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo và nhân quyền, được tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới thì nhà nước Việt Nam đã lãng quên trách nhiệm của mình về nhân quyền và đã diễn ra hàng loạt, hàng loạt những vụ vi phạm không chỉ về nhân quyền, dân chủ theo các qui định quốc tế mà ở Việt Nam hiện nay còn rất nhiều trường hợp thương tâm. Tôi có thể lấy ví dụ đó là các vụ dân sinh. Cho đến nay các vụ dân sinh rất lớn chưa được giải quyết, và không ai chịu trách nhiệm ở Việt Nam cả. Đó là những người bị ngược đãi, bị chịu rủi ro chẳng hạn như dân oan đất đai ở Văn Giang (Hưng Yên), hay vụ xả lũ thủy điện miền Trung vào cuối năm 2013. Hơn 50 mạng người đã bị giết sống trong rốn lũ. 15 nhà máy thủy điện dưới sự quản lý của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và sự quản lý gián tiếp của Bộ Công Thương Việt Nam đã xả lũ trên đầu người dân, đã giết hơn 50 mạng người.Nhưng cho đên nay vẫn chưa có bất kỳ một quan chức nào chiụ trách nhiệm và thậm chí cũng không có tiền đền bù. Cho nên gần đây Quảng Nam, Đà Nẵng là 2 địa phương không chịu nổi. Họ đang đe dọa sẽ kiện ngược lại Bộ Tài nguyên, Môi trường hay Bộ Công Thương. Sự vi phạm quyền con người ở Việt Nam là rất đáng kể. Một vụ khác xảy ra ở Thanh Hóa suốt từ giữa năm 2013 đến bây giò. Đó là vụ chôn thuốc trừ sâu đã gây ra mấy làng ung thư xung quanh công ty Vicotex ở Thanh Hóa. Mấy làng ung thư đó đã có hàng trăm người chết và mấy trăm người khuyết tật. Nhưng mà đên bây giờ vụ việc vẫn gần như bị chìm xuồng.
Qua những chuyện đó chúng ta có thể thấy nhà nước Việt Nam đã thực hiện vấn đề nhân quyền như thế nào? Hay là gần đây nhất chúng ta thấy văn bản cuối năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa do một Phó Chủ tịch Ủy ban ký duyệt kế hoạch tổng kết của ngành công an Thanh Hoá trong đó có ghi rõ một cụm từ là “tổng kết phòng,chống khủng bố và nhân quyền”. Điều đó cho thấy cái gì? Người ta đã viết điều đó giống như phái đoàn Việt Nam đọc báo cáo ở UPR rất quán tính, rất trì trệ và theo một não trạng bất di, bất dịch. Người ta đã nghĩ, đã ăn sâu vào trong óc người ta, trong xương tủy người ta. Đến mức khi hành văn người ta không ý thức được người ta định cái gì và người ta cũng không ý thức thế giới có thể lên tiếng, lên án nhà nước Việt Nam đánh đồng chống khủng bố với nhân quyền.
Tôi nêu ra một số vấn đề như vậy để anh Trần Quang Thành có thêm thông tin và cũng để quí đọc giả, quí thính giả nắm thêm một số thông tin chia sẻ với chúng tôi.
TQT : Từ một nước đi khuyên người ta nên làm, nhưng mình lại không làm những lời như khuyên người ta. Từ một nước chủ động như vậy, bây giờ bị tụt hậu hơn nước mình đi khuyên người ta. Theo nhà bình luận Phạm Chí Dũng rào cản nào đã làm cho Việt Nam tụt hậu hơn cả Myanma?
PCD : Trong mọi thứ rào cản có một thứ rào cản không thể tránh khỏi, không thể phủ nhận được : Đó là sự độc đoán. Chúng ta có thể chấp nhận những rào cản khác với điều kiện nó có tính đa nguyên, tính dân chủ. Và dù rào cản nhưng nó có gợi mở ra một lối thoát nào đó. Đặc biệt là lối thoát cho dân chúng. Nhưng còn với rào cản độc đoán và độc quyền thì khó có điều gì gỡ nổi.
Tôi muốn nói đến rào cản đầu tiên là sự độc đoán về kinh tế. Sự độc quyền về kinh tế sinh ra nhóm lợi ích. Chúng ta đều biết là sự độc quyền về kinh tế nó bắt nguồn từ đâu? Bắt đầu từ cơ chế chính trị. Hồi trước tôi không nhận ra được điều này. Tôi cho là cơ chế chính trị một đảng là phù hợp và đặc biệt có tác dụng trong thời chiến. Đặc biệt cần có chuyên chính trong thời chiến. Và để giải quyết thành công trong cuộc chiến cần phải độc đảng và độc đoán. Nhưng mà đến thời bình thì chúng ta thất bại hoàn toàn. Chúng ta thấy điều đó ở Liên Xô, ở các nước Đông Âu. Một sự sụp đổ nhanh chóng, toàn diện và cay đắng chưa từng có. Hồi năm 1989 – 1990 khi nghe Liên Xô sụp đổ tôi đã khóc. Ngày 19/8/1991 khi En-xin đàn áp dùng súng để đàn áp Quốc hội tôi đã khóc. Nhưng sau đó 10 năm tôi bắt đầu nhận ra rằng những giọt nước mắt của mình có vẻ vô nghiã và tôi thấy rằng độc đoán chính trị nó dẫn tới độc quyền về kinh tế và đặt ra rào cản như anh vừa đề cập. Thực ra nó không phải là rào cản mà là một cái hố, hố sâu khủng hoảng. Cái hố mà người ta đã sa chân xuống rồi không cách nào có thể rút chân lên được. Việt Nam bây giờ đang năm trong tình trạng đó. Tức là lao sâu vào cái hố độc đoán do họ tự tạo. Chứ đừng có nói là tư bản tự đào hố để dẫy chết như là những luận điệu tuyên truyền một chiều từ trước đến nay. Đó là những điều tâm huyết và khi nhắc lại những điều này tôi thấy buồn và đau. Nhưng thôi tất cả những nỗi buồn và đau đớn đó nó vẫn có những nguồn gốc ngu ngốc của nó, ngu ngốc đối với tôi. Thành thử tôi không còn tiếc nuối nữa. Nhắc lại với anh Thành đó là một trong những nguồn dẫn để tôi đã phải quyết định rời khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam vào cuối năm 2013.
Và tôi thấy bây giờ tương lai của Việt Nam có thể được quyết định bới những thái độ như thế này :
Thứ nhất là những người trong đảng họ phải chấp nhận sự đa nguyên về chính trị.
Tiếp theo sự đa nguyên về chính trị họ phải chấp nhận ít nhất về phương diện hình thức – hình thức đối trọng về mặt chính trị – Chấp nhận đảng phái độc lập hoạt động, trong đó có đảng phái đối trọng về chính trị để cùng cạnh tranh một cách lành mạnh về chính trị, đưa đát nước cùng phát triển như là kinh nghiệm của một số quốc gia khối SNG hậu Liên Xô. Ít nhất là như vậy. Chúng ta thấy cả những nước như Ucraina như vừa rồi đã chấp nhận đối trọng chính trị mà quản lý không tốt vẫn có thể gây rối. Cho nên điều đó lại liên quan đên tình hình, đến một điều kiện không thể thiếu được là phải có xã hội dân sự để giám sát các chế độ chính trị. Không chỉ đối với chế độ chính trị hiện hành mà kể cả với chế độ chính trị sau này.
Tôi cho là môt tương lai của Việt Nam không thể thiếu được những cơ chế như thế. Chấp nhận đa nguyên chính trị, tam quyền phân lập và xã hội dân sự.
TQT : Liên Xô là một thành trì bất khả chiến bại của phe xã hội chủ nghĩa với một lực lượng hùng hậu về tổ chức đảng, về quân đội, về phương diện cính trị, về mọi mặt. Đông Âu cũng là một điển hình như vậy. Nhưng chỉ trong môt thời gian rất chóng vánh, rất ngắn thôi Liên Xô tan rã, Đông Âu sụp đổ. Vậy Việt Nam đến nay sao vẫn có thể tồn tại được. Thưa anh?
Có khả năng nào Việt Nam có thể vượt qua tất cả để lấp cái hố sâu đó không. Thưa anh?
PCD : Đây là một câu hỏi chưa có câu trả lời anh Trần Quang Thành ạ.
Nó cũng khó như là tìm hiểu nguyên nhân tại sao Liên Xô sụp đổ. Cho đến nay có nhiều câu hỏi và nhiều câu trả lời, nhiều giả thuyết. Nhưng theo tôi biết những câu trả lời chỉ mang tính chất giả thuyết mà thôi.
Đây là một vấn đề tôi đề nghị vào một thời điểm nào đó chúng ta sẽ bàn thêm vì nó chiếm khá nhiều thời gian. Và bản thân trình độ tôi không đủ am hiểu, không đủ kiến thức, đặc biệt là kiến thức về mặt lịch sử để giải thích những vấn đề này.
Tôi cho răng việc trả lời câu hỏi tại sao cho tới giờ này Việt Nam vẫn chưa thay đổi. Nhà nước Việt Nam, chế độ cầm quyền ở Việt Nam chưa thay đổi? Nó cũng khó như là tìm hiểu câu trả lời tại sao Liên Xô và các nước ở Đông Âu lại sụp đổ? Chỉ có điều tôi cho rằng không lâu nữa. Có lẽ chỉ từ ba đến bốn năm nữa thôi những xu hướng hòa nhập – rối ren ; vừa hòa nhập – vừa rối ren tại nhiều nước, tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó đặc biệt tại khu vực Campuchia sẽ tác động trực tiếp đến tình hình xã hội, chính trị ở Việt Nam. Và do vậy có thể làm cho sự thay đổi ở Việt Nam xúc tiến nhanh hơn. Nhưng mà xúc tiến như thế nào thì có nhiều kịch bản.
Xin hẹn anh Trần Quang Thành chúng ta se trở lại bàn những kịch bản đó cũng như vấn đề Liên Xô và hậu Liên Xô vào một thời điểm khác.
TQT : Xin cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Chúng ta sẽ bàn những chủ dề đó vào một dịp khác.