Bị lùa vào trong vùng ánh sáng màu xám bạc chênh chếch nơi đầu Bãi Tư Chính, các tàu tuần tiễu nhỏ của Hải quân Việt Nam và cả ‘lực lượng ngư dân tự vệ’ đi cùng đang rơi một tình trạng giằng xé cực kỳ khó chịu và khó gỡ: chiến thuật ‘vùng xám’ của người đồng chí tốt Bắc Kinh.
Màu xám chênh chếch
Theo định nghĩa của giới chuyên gia quân sự, chiến thuật “vùng xám”, hay còn được gọi là những hành động “dưới ngưỡng chiến tranh”, tức là không sử dụng hải quân mà thay bằng những lực lượng quân sự hoặc bán quân sự trá hình tiến hành các hoạt động trên biển nhưng không vượt qua một giới hạn nào đó để không kéo theo phản ứng quá mạnh từ các nước trong khu vực và trên thế giới.
Ngoài loại hình tàu hải giám và tàu dân quân biển, tàu thương mại dân sự cũng là một thành phần nằm trong chiến thuật ‘vùng xám’ sâu hiểm ấy của Trung Quốc.
Khi cái màu xám chênh chếch của nắng chiều đã ngả sang màu tối trong tiết hè nồng nực nén bão của năm 2019, hiện tượng ngày càng nhiều chấm đen lấm tấm của các tàu dân sự lảng vảng xung quanh tâm điểm là tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 ở khu vực Bãi Tư Chính, cùng với hiện tượng ‘đảng anh’ Trung Quốc điều động thêm tàu nghiên cứu vào khu vực này và cho tập trận máy bay SU-35 trên Biển Đông, chẳng hề phát ra tín hiệu tốt lành nào mà có thể khiến ‘đảng em’ Việt Nam kê cao gối ngủ ngày.
Đã rất rõ là phía Trung Quốc đang chơi một trò rất khó chịu: chiến thuật dân sự – quân sự hỗn hợp.
Một tổng kết của giới nghiên cứu cho biết vào năm 2014, loại hình tàu thương mại dân sự cũng đã xuất hiện trong vụ giàn khoan HD-981, để cùng với các tàu hải giám tham gia trực tiếp chặn đường ngăn cản các tàu kiểm ngư Việt Nam tiếp cận giàn khoan.
Còn theo dữ liệu của nhóm nghiên cứu C4ADS tại Mỹ, đã có tới khoảng 30 tàu thương mại dân sự được cho là hiện diện quanh giàn khoan HD-981 hồi năm 2014, trong đó chỉ có 10 tàu có thể xác định danh tính. Báo cáo được đăng trên trang của Trung tâm an ninh hàng hải quốc tế (CIMSEC) cho biết đã có ít nhất 3 tàu thương mại quốc doanh Trung Quốc tiến hành các hành vi phun nước, đâm va và rượt đuổi các tàu Việt Nam đang làm nhiệm vụ bảo vệ quyền chủ quyền của Việt Nam. Theo dõi đường đi của các con tàu cho thấy chúng phối hợp với nhau, cũng như phối hợp với các tàu Trung Quốc khác trên thực địa.
Việc Trung Quốc sử dụng tàu thương mại dân sự và tàu dân quân biển trong chiến thuật ‘vùng xám’ cho thấy nhiều khả năng Bắc Kinh muốn kéo dài vụ xâm phạm Bãi Tư Chính, còn kéo dài tới bao lâu thì còn tùy thuộc vào một số yếu tố như Trung Quốc có đạt được mục đích hoặc một phần mục đích gây áp lực buộc Việt Nam phải chia bôi tài sản dầu khí khai thác được, yếu tố về mức độ phản ứng của Việt Nam, yếu tố phản ứng của quốc tế, đặc biệt là của Mỹ, đối với Trung Quốc…
Vậy Việt Nam có gì trong tay để đối phó với ‘vùng xám’?
Lực lượng ngư dân tự vệ?
Trên phương diện giấy tờ, chính thể Việt Nam xem ra chẳng thiếu thứ gì. Và ở mức độ ‘dưới ngưỡng chiến tranh’ mà chưa cần thiết phải nổ súng vào tàu Trung Quốc, Việt Nam cũng có lực lượng ngư dân tự vệ của nó.
Trong một lần hiếm hoi, lực lượng dân sự có một chút dân quân trên đã được Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) đề cập trong bài “Việt Nam tăng cường lực lượng ‘ngư dân tự vệ’ để đối phó với Trung Quốc” của tác giả Ralph Jennings, vào tháng Tư năm 2018. Bài này cho biết lực lượng ngư dân tự vệ được tăng cường trong năm 2009 khi Quốc hội Việt Nam thông qua một đạo luật cho phép ngư dân tự vệ hộ tống các tàu cá. Theo một nghiên cứu năm 2017 của các học giả thuộc Học viện Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore, 13 đội “ngư quân” (của Việt Nam) yểm trợ hơn 3.000 ngư dân đánh bắt gần quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông. Trung Quốc kiểm soát Hoàng Sa, nhưng Việt Nam tuyên bố chuỗi đảo này là thuộc chủ quyền của mình. Hơn 10.000 ngư dân và khoảng 2.000 tàu đánh cá ở tỉnh Khánh Hòa được cấp ống nhòm hồng ngoại, theo nghiên cứu của Singapore. Việt Nam đã ban hành một nghị định vào năm 2014 để trợ giúp các ngư dân, những người có tàu “công suất lớn hiện đại” – thường là các tàu thép, mở rộng phạm vi hoạt động. Theo nghị định này, các ngân hàng Việt Nam đã cho các ngư dân vay 176 triệu USD để nâng cấp khoảng 400 tàu…
Nhưng trong thực tế, chính thể Việt Nam đã làm được gì cho “lực lượng ngư dân tự vệ” và sử dụng lực lượng này có hiệu quả hay không ?
Sự thật trần trụi và đau đớn
Mặc dù cảnh tượng côn đồ và giết người của tàu Trung Quốc đối với tàu ngư dân Việt đã xảy ra từ rất nhiều năm và đặc biệt từ năm 2011 trở đi, nhưng phải đến tháng Sáu năm 2016 mới lần đầu tiên xuất hiện một quan chức phụ trách các vấn đề liên quan tới ngư dân – ông Vũ Văn Tám, thứ trưởng Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn – đề cập một cách bình thản “Hơn 4.000 tàu cá Việt Nam gặp nạn với hơn 2.300 ngư dân thương vong, mất tích trên biển chỉ trong hơn hai năm qua”.
Ngay cả thời gian gần đây khi Việt Nam có một chút nhúc nhích từ tư thế “đu dây” sang “dựa Mỹ đối Trung”, một sự thật trần trụi và đau đớn là giới chóp bu Việt Nam đã chỉ quan tâm đến việc bảo vệ những mỏ dầu và khí đốt phục vụ cho lợi ích cùng sự tồn tại của đảng cầm quyền, trong khi chẳng hề quan tâm đến nhiều cái chết của ngư dân Việt bị bắn giết bởi tàu Trung Quốc.
Một Việt Nam đương đại đang hiện ra trên bản đồ thế giới với câu châm ngôn “ngư dân bám biển, hải quân bám bờ”.
Từ sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc lao vào án ngữ ở Biển Đông năm 2014 khiến hàng ngàn tàu cá của ngư dân Việt phải chịu cảnh nằm bờ treo niêu, cho tới nay lực lượng cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vẫn không có động tác thực chất và hiệu quả nào để hộ tống ngư dân ra khơi – như cách người Philippines và người Nhật đã làm đúng thiên chức “quân với dân như cá với nước.
Không những tư thế “bám bờ” vẫn kiên định một cách phủ phục đến khó tưởng tượng nơi quân chủng hải quân và cảnh sát biển, những hứa hẹn của chính phủ “cho ngư dân vay tiền đóng tàu sắt” từ giữa năm 2014 đã trôi ngược lên Trung Nam Hải. Sau một thời gian tuyên truyền lẫn tuyên giáo như thể nhà nước sẽ làm tất cả cho ngư dân của mình, một lần nữa trong rất nhiều lần người dân lại mất nốt những hy vọng xót xa còn lại. Bị giới ngân hàng chỉ biết “còn đảng còn tiền” bày ra vài chục loại thủ tục và ngâm hồ sơ đến cả năm trời, chỉ có khoảng 10% ngư dân được giải ngân. Nhiều ngư dân khác đã phải nuốt giận rút hoặc hủy hồ sơ vay vốn.
Kết luận thật đắng chát: Lực lượng ngư dân tự vệ của Việt Nam không chỉ phải chịu rủi ro nguy hiểm từ “tàu không rõ quốc tịch”, mà còn bị chính những người cùng quốc tịch lừa gạt một cách không thể nhẫn tâm hơn.
Bởi ngay cả những ngư dân vay được ngân hàng và được ngân hàng giải ngân để “đóng tàu sắt” để đối phó với tàu cá và tàu hải giám của Trung Quốc cũng bị chính những doanh nghiệp đóng tàu lừa gạt bằng… vỏ thép Trung Quốc.
Vào năm 2016, bất chấp Nghị định 67 của Chính phủ Việt Nam về một số chính sách phát triển thủy sản ra đời mà được kỳ vọng sẽ “giúp ngư dân thực hiện giấc mơ đóng tàu to, hiện đại để vươn khơi bám biển dài ngày”, đã có đến vài chục tàu vỏ thép của ngư dân miền Trung – trị giá hàng trăm chục tỷ đồng – vừa đóng mới và đi chuyến biển đầu tiên đã bị hư hỏng, phải nằm bờ. Còn một số cơ sở đóng tàu lại “qua cầu rút ván” khi xảy ra hậu quả đó. Thậm chí một trong những doanh nghiệp đóng tàu có nhiều dấu hiệu gian dối như thế lại thuộc… Bộ Công an.
Nhưng cho tới nay, đã chẳng có bất kỳ doanh nghiệp đóng tàu gian dối nào bị truy tố. Về thực chất, kế hoạch “đóng tàu sắt” của Việt Nam cho tới nay đã gần như phá sản, hoàn toàn trái ngược lại với hình ảnh hàng chục ngàn tàu sắt của ngư dân Trung Quốc được Bắc Kinh trang bị đến nơi đến chốn để ồ ạt đánh bắt cá ở Biển Đông và còn xông thẳng vào vùng hải phận Việt Nam trước cơn “ngủ ngày” của Hải quân và Cảnh sát biển nước Việt.
Song vẫn chưa hết.
Vào khoảng thời gian hàng đàn tàu Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính, ngư dân Việt không chỉ bị hành hạ bởi kẻ cướp bên ngoài mà còn bởi ‘nội xâm’ bên trong: theo quy định mới trong Luật Thủy sản 2017 và Công văn số 2030 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 25 tháng 3 năm 2019, tàu cá có chiều dài dưới 15 m không được ra vùng biển xa bờ, mà chỉ được phép khai thác trong phạm vi 60 hải lý. Quy định ‘hành là chính’ này đã khiến hàng ngàn tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam không thể ra khơi, chủ tàu phải chịu lỗ, còn ngư dân thì mất việc.
Vậy thì lấy đâu ra tinh thần và vật chất cho ‘lực lượng ngư dân tự vệ’ để lao thuyền ra Biển Đông đối đầu với hàng ngàn tàu sắt kiên cố của Trung Quốc? Hay lại ‘chống ngập bằng lu, chống giặc bằng cờ’ theo lối chính quyền phát miễn phí hàng chục ngàn lá cờ đỏ sao vàng cho những ngư dân đang muốn bục mặt vì lo lắng và sợ hãi, vừa thuyết mị vừa gây áp lực buộc họ phải xông lên nơi đầu sóng ngọn gió, trong lúc những quan chức cao cấp của đảng như Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Trưởng ban Tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng vẫn uốn mình sang Bắc Kinh ‘triều kiến’ và học hỏi về chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc lẫn cái vùng xám của ‘đại cục’ ở Biển Đông, còn Bộ Giao thông Vận tải thì ra sức ‘cõng rắn cắn gà nhà’ bằng cách mời mọc và bảo vệ cho nhiều chục doanh nghiệp Trung Quốc tấn công vào mảng xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam và có thể cả dự án đường sắt cao tốc chạy từ Sài Gòn đến tận… Trung Quốc?