Kỷ niệm 110 năm Đông Kinh Nghĩa Thục (1907 -2017)

Nguyễn Khắc Mai

- Quảng Cáo -

Đông Kinh Nghĩa Thục và cuộc Quốc Gia Khởi Nghiệp thế kỷ XX

I- Đông Kinh Nghĩa Thục – Điều cần đến đã đến.

Vào đầu thế kỷ XX, khi phong trào Cần vương đã thất bại, thực dân Pháp bắt đầu đặt nền đô hộ hoàn chỉnh lên Việt Nam, thì tấm gương duy tân của Nhật bản, với sự kiện bùng nổ-chiến tranh Nga Nhật kết thúc. Nhật đã đánh tan hạm đội hùng hậu của Nga ở eo Đối mã, cùng lúc tiếng vọng về những tư tưởng mới Âu Mỹ từ những “tân thư” vào Việt Nam. Những sự kiện ấy cùng lúc dội vào tâm trí lớp sĩ phu cấp tiến, nặng lòng yêu nước, ý thức được sự yếu kém về mọi mặt của đất nước của xã hội khiến cho cái tinh thần Duy Tân trỗi dậy. Họ tìm tòi một con đường cứu nước, trước hết bằng thức tỉnh quốc dân, vượt lên sự hủ lậu cố cựu, xây dựng nội lực tự lập, tự cường, bỏ con đường khoa cử hư danh,”nọc độc”, gây dựng thực nghiệp làm cho dân mạnh nước giàu, cổ vũ lối sống mới, xóa bỏ hủ tục, mở mang nhiều trường học ở khắp nơi…Bắt đầu từ Trung kỳ kết hợp chống thuế và duy tân, rồi lan ra Bắc vào Nam.

Đông Kinh Nghĩa thục ra đời trong bối cảnh ấy. Cố nhiên, chúng ta phải đánh giá cao sự gợi ý từ mẫu hình của Khánh Ứng Nghĩa Thục (Keio Gijuku) của Nhật bản. (Và cũng phải ngậm ngùi than thở, cớ sao trường Nghĩa Thục của họ vẫn tồn tại, hoạt động suốt hơn trăm năm qua. Còn ở Việt nam thì dẫu gọi là đã giành độc lập, mà ngôi trường ấy chẳng những không được phục hưng, mà còn bị dập vùi quên lãng!).

- Quảng Cáo -

Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ tồn tại võn vẹn trong 9 tháng, kể từ tháng Tư bắt đầu khới sự cho đến tháng 12 thì phải theo lệnh thực dân Pháp mà đóng cửa. Tuy thế, chưa bao giờ có một ngôi trường kiểu mới, vừa học vừa hành,vừa học vừa tập, nhà trường rộng mở ,liên kết với nhiều hoạt động văn hóa xã hội, vừa học vừa bàn kế sách cứu nước. Từ cả ngàn năm, chưa bao giờ có một sinh hoạt văn hóa tưng bừng, nô nức hứng khởi như vậy.

Bởi vì đây là một ngôi trường kiểu mới, “hoàn toàn của Việt Nam”, không chỉ là một nhà trường mà thật sự là một phong trào văn hóa mới, cách mạng, yêu nước mới. Ở đó thầy và trò đề cao mục đích (cũng là lý tưởng của việc học):

Liệu làm sao, tính làm sao,

Làm sao cho được bảnh bao như người?

Mai sau cho được như lời,

Lên lầu Độc Lập, hát bài Tự Do.

Hoặc dẫu chỉ là một vấn đề của lối sống (văn minh, hợp lý hơn, như việc cắt đi cái búi tó, thì cũng là;

Phen này cắt tóc đi tu,

Tụng kinh ĐỘC LẬP, ở chùa Duy Tân!

Sự hưởng ứng của quần chúng có chăng, chỉ những ngày đầu của Khởi nghĩa Tháng Tám mới sánh được:

Trường Nghĩa thục đứng đầu dạy dỗ,

Khắp ba mươi sáu phố Hà Thành.

Gái trai nô nức học hành,

Giáo sư tám lớp, học sinh non ngàn.

Buối diễn thuyết người đông như hội.

Kỳ bình văn khách tới như mưa.

Cái mới mẻ, hào hứng nhân lên đầy reo vang tự hào:

Mở tân giới, xoay nghề tân học.

Đón tân trào dựng cuộc duy tân.

Tân thư, tân báo, tân văn.

 

Ngày nay sau 110 năm nhìn lại, Đông Kinh Nghĩa Thục xuất hiện trên bầu trời văn hóa Việt, chỉ như ánh sao băng, rọi một làn sáng chói, tưởng chừng chỉ trong khoảnh khắc. Nhưng năng lượng để lại thì đang lan tỏa trong vũ trụ. Cũng như năng lượng vũ trụ không bao giờ mất. Giá trị của ĐKNT còn tồn tại vĩnh hằng. Thế mà có những kẻ dám quên ơn, dám “trứng khôn hơn vịt” coi thường sĩ khí một thời.

Nguyễn Thái Học

Còn nhớ, về sau này khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại, bị thực dân Pháp dìm trong bể máu, trước khi ra pháp trường, Nguyễn Thái Học đã cảm khái “Dẫu không thành công thì cũng thành nhân.” Thành nhân có thể hiểu theo hai nghĩa: Thành người, và thành ra những hạt nhân, nếu biết cách có thể thu được năng lượng vô cùng to lớn của nó, chữ nhân này cũng nên hiểu như những hạt giống tốt, đúng, đẹp để nếu biết gieo trồng nhất định sẽ có kết quả tử tế, tốt đẹp.

Vào thời ấy Đông Kinh Nghĩa Thục như mở ra một cánh cửa lớn để dân tộc nhìn vào, rồi đi vào một con đường lớn, làm một cuốc khởi nghiệp quốc gia để đưa đất nước, xã hội bước vào con đường giành Độc Lập, gây dựng một nền Dân Quyền, phát triển một nền kinh tế, một nền giáo dục hoàn toàn mới. Bây giờ, chúng ta cổ vũ sự khởi nghệp của từng doanh nhân, doanh nghiệp. Nhưng cuộc vân động khởi nghiệp để có một Quốc gia Việt Nam kiểu mởi, trong đó “lập quyền dân” mới, lập một kiểu chính quyền mới, xây dựng một nền văn hóa giáo dục mới hoàn toàn Việt Nam, phát triển môt nền kinh tế có công nông thương tín hiện đại…những nhà Đông Kinh Nghĩa Thục thời đó cả thầy cả trò đã thực hiện một ước mơ lớn lao dường nào? Thử hình dung tình hình nước ta thời đó, đất nước không còn độc lập, chủ quyền trong tay thực dân Pháp, Triều đình (chính quyền), nói như GS Vũ Ngọc Khánh là ngu ngơ hư hèn!, xã hội, thì dân còn mù chữ, kinh tế đời sống lạc hậu, giáo dục thì chuộng hư danh khoa cử (các cụ phải kêu lên :khoa cử nọc độc.)

ĐKNT không chỉ là ngôi trường theo nghĩa cụ thể, mà là một trường hoạt động, đấu tranh, để chấn hưng, “đổi mới” đất nước và dân tộc, chuẩn bị điều kiện “dân trí, dân quyền”, năng lực tự lập, tự cường về kinh tế, văn hóa…để giành lại độc lập, tự do cho nhân dân và đất nước.

ĐKNT là một “cú hích” quyết liệt để khẳng định sự từ bỏ trung cổ, phong kiến chuyển sang hiện đại và hòa nhập văn minh nhân loại. ĐKNT khẳng định độc lập gắn với dân trí, dân quyền, với nền kinh tế công nghiệp, hòa nhập thế giới. ĐKNT mở ra định hướng mới cho sự chấn hưng, phát triển đất nước, mà nhiều điều cốt lõi đến nay vẫn nguyên giá trị.

Cho nên với những việc làm, những hô hào cổ vũ, những sách báo mà ĐKNT chủ trương, đặc biệt là Văn Minh Tân Học Sách và Tân Đính Luân Lý Giáo Khoa Thư …không thể nghĩ khác hơn, đó chính là một cương lĩnh to lớn và đẹp đẽ của một cuộc QUỐC GIA KHỞI NGHIỆP đầu thế kỷ XX.

II- Những lý tưởng của cuộc quốc gia khởi nghiệp mà ĐKNT đề xướng.

1.Giữ gìn nền độc lập của dân của nước.

Đông Kinh Nghĩa thục nhân thức rõ cái họa “mất nước” và phải khôi phục lại nền Độc lập cho nước nhà.Họ quan niệm 4 yếu tố gắn với nền độc lập :Quốc gia- Dân tộc-Quốc dân- và Lòng Yêu nước,mà ngày nay vẫn tồn tại như những giá trị cập nhật.

Về lòng yêu nước, ĐKNT nhấn ba điều, vừa thể hiện tinh thần, vừa thể hiện ra hành động:

Một là, lo nghĩ về vận nước. ”Than ôi! Lo không gì hơn mất nước, buồn không gì buồn hơn thân bị nhục.”

Hai là, lo rữa nhục mất nước, thân nô lệ, xã hôi yếu hèn lạc hậu. Các cụ gọi là Tuyết quốc sỉ. Tuyết là làm trắng lại như tuyết, rửa sạch nỗi nhục nô lệ, yếu hèn lạc hậu. Quốc sĩ là nỗi nhục của nước.

Ba là, hành động để hóa dân, cường quốc. Phải làm biến đổi, chuyển hóa quốc gia dân tộc. Làm cho dân tiến hóa, cho dân văn hóa, biến đổi chất lượng con người, chật lượng xã hội. Để giành lại và giữ gìn độc lập thì nước phải mạnh và dân có văn hóa.

Vào cuối thế kỷ XX, khi đã thấm đòn “bao cấp”,{thật ra bao cấp chỉ là một phương thức hành động có tính chất nhà nước và xã hội. Bao cấp đã có từ xa xưa trong thời nguyên thủy, thời chế độ chiếm nô, thời “feodal”(chữ phong kiến không diễn tả được!) trong chủ nghĩa tư bản và xhcn. Để tránh sự kết án XHCN nên các nhà “tư tưởng” mác xít ở Việt Nam dùng làm hình nhân thế mạng cho cnxh.} Khẩu hiệu “Dân giàu, nước mạnh”được phổ biến. Khẩu hiệu này kém một bậc so với khẩu hiệu của nho gia Việt Nam, là “Quốc phú Dân cường.” nghĩa là Dân mạnh, Nước giàu. Dân mạnh, là mạnh vì gạo, bạo vì tiền, mà còn là mạnh về học vấn, văn hóa trí tuệ, chữ nghĩa, nhân cách con người! Tuy nhiên mấy khẩu hiệu ấy chủ yếu nói về các kết quả đạt được. Trong khẩu hiệu của ĐKNT ta thấy nó là phương thức kép, vừa nói cái kết quả phải đạt được, mà còn nói tới cả cái quá trình hành động để tạo ra kết quả ấy.

Hóa dân, cường quốc, là triết lý kép lại biện chứng, hai nội dung ấy hổ trợ cho nhau, có tiến hóa, có văn hóa (cái kết quả tinh thần mà không chỉ đạt tới bằng vật chất, nên có vật chất mà không có tiến hóa và văn hóa thì cũng chỉ là “vật” chứ chưa có thể thành người.) Cho nên ĐKNT quan niệm rất rõ: ”Nước mạnh hay yếu là do Dân. Dân mạnh thì nước yếu có thể chuyển thành mạnh, mạnh lâu dài.”

Phải đổi mới tư cách của người dân. Lần đầu tiên ĐKNT đưa ra quan niệm Quốc dân, là một quan niệm tiên phong, đi trước thời đại cả trăm năm. Quốc dân chính là cái xương sống, cái lõi của quốc gia dân tộc. Quốc dân phải là những người “ý thức ái quốc, ái quần, bồi dưỡng tài năng tự trị, tự lập.” Và,”Muốn nước được bình trị, mà mong ở vua hiền, tướng giỏi thì không bằng mong ở dân mạnh.”

Ngày nay chúng ta đã ghi được vào Hiến Pháp một số điều cơ bản về nhân cách và quyền của Quốc dân (công dân). Nhưng để đạt cho được cái minh triết trong hai chữ Quốc Dân mà ĐKNT mong ước thì còn phải sửa đổi và làm nhiều hơn nữa. Quan niệm dân mạnh của ĐKNT bao gồm: mạnh về trí tuệ, học vấn, năng lực khoa học kỹ thuật, công nghệ và thực nghiệp, mạnh về phẩm chất đạo đức, tinh thần yêu nước, bác ái, tiến thủ, cạnh tranh, biết vị trí của mình trong xã hội, mạnh về ý thức tự quyền, không nhất thiết trông chờ ở chính phủ..Bởi vì “quan cũng chỉ là người dân nắm chính quyền mà thôi.” Mà thiết thực nhất là “mạnh: vì có sản nghiệp và biết làm chủ sản nghiệp.

Lớp học của trường Đông Kinh Nghĩa Thục

Triết lý “Hóa dân, Cường quốc” của ĐKNT đặt ra một loạt vấn đề có tính hệ thống: xây dựng một chính thể dân chủ của Việt Nam, do Việt Nam, vì Việt Nam; một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam, một nền kinh tế biết coi trọng và phát triển cái vốn (tư bản), coi trọng công, nông, thương, tín, coi trọng luật pháp để biết bảo vệ tài sản, kể cả tài sản trí tuệ. Hơn nữa, biết coi trọng và phát huy mọi phương thức, phương tiện hiện đại để phát triển và quản lý kinh tế

Hãy làm cho nước Nam của ta càng văn minh, kế ấy là kế của nước, cũng tức là kế của bản thân mình”. Bởi vì ”Không thể như trăm năm trước nữa, cứ đóng cửa mà trị dân, dù không tiến bộ cũng có thể ngồi mà giữ nước.” Vì thế cái định hướng Độc lập gắn với Dân chủ, Dân quyền rõ ràng là một định hướng minh triết.

- Quảng Cáo -

Chúng Tôi Mong Có Góp Ý Kiến Thêm Từ Quý Vị

Please enter your comment!
Please enter your name here