Thế là cuộc tranh giành quyền lực trong giới lãnh đạo chóp bu tại Việt Nam đã kết thúc: Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng và Nguyễn Tấn Dũng về hưu, Nguyễn Phú Trọng được lưu nhiệm để làm Tổng Bí thư thêm một nhiệm kỳ hoặc nửa nhiệm kỳ nữa với lý do là để giữ sự “ổn định” trong guồng máy lãnh đạo đảng.
Tâm lý sợ sự sắc sảo ấy gắn liền với một tâm lý khác: sợ sự thay đổi. Người ta biết chắc Nguyễn Phú Trọng không phải là một lãnh tụ tài giỏi nhưng ít nhất dưới sự lãnh đạo của ông sẽ không có gì thay đổi cả. Không thay đổi trong thể chế chính trị. Không thay đổi trong quan hệ với Trung Quốc. Và, đặc biệt, quan trọng nhất, không có gì thay đổi trong bộ máy quyền lực của đảng cũng như những quyền lợi mà các uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đang có.
Điều này làm giới quan sát Việt Nam cũng như quốc tế khá ngạc nhiên. Từ một, hai năm gần đây, hầu như người nào cũng tiên đoán chiếc ghế tổng bí thư ấy sẽ lọt vào tay của Nguyễn Tấn Dũng, người được cho là có thế lực nhất trong Ban Chấp hành Trung ương đảng.
Không những ngạc nhiên, nhiều người còn luyến tiếc. Trên các diễn đàn mạng, số lượng những người thiên vị Nguyễn Tấn Dũng nhiều hơn hẳn những người khác. Người ta ca ngợi Nguyễn Tấn Dũng là thực tế, thực dụng, cấp tiến, thân Mỹ và Tây phương, có tính cách mạnh mẽ, do đó, có hy vọng thay đổi tình hình chính trị tại Việt Nam.
Nhiều người còn vẽ lên một bức tranh xán lạn: Nguyễn Tấn Dũng sẽ hợp nhất chiếc ghế tổng bí thư với chiếc ghế chủ tịch nước để tạo nên một guồng máy lãnh đạo giống như Trung Quốc, hoặc lạc quan hơn hơn, giống hình thức tổng thống chế ở Tây phương.
Với ý nghĩ như thế, người ta đâm ra thất vọng và hụt hẫng khi biết người chiến thắng trong cuộc giành giật chiếc ghế tổng bí thư lại là Nguyễn Phú Trọng.
Xin lưu ý là từ mấy năm nay trong những trận đối đầu công khai giữa Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng, hầu như lúc nào Nguyễn Tấn Dũng cũng thắng. Năm 2012, trong Hội nghị thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương đảng đã bác bỏ đề nghị kỷ luật Nguyễn Tấn Dũng của Nguyễn Phú Trọng.
Năm 2013, trong Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương lại bác bỏ đề nghị đưa Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị của Nguyễn Phú Trọng; ngược lại, hai người được bầu, Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân được cho là những người thân cận với Nguyễn Tấn Dũng.
Vậy mà, hiện nay, trong cuộc tranh chấp quan trọng và quyết định nhất đối với sự nghiệp của Nguyễn Tấn Dũng, ông lại bị Nguyễn Phú Trọng đánh bại.
Một câu hỏi không thể không được đặt ra: Tại sao Bộ Chính trị cũng như Ban Chấp hành Trung ương đảng lại chọn lựa Nguyễn Phú Trọng thay vì Nguyễn Tấn Dũng?
Ai cũng biết Nguyễn Phú Trọng là người bảo thủ, giáo điều và tuyệt đối không sắc sảo. Sự thiếu sắc sảo ấy khiến Nguyễn Phú Trọng, một mặt, sau 5 năm nắm giữ chức vụ cao nhất trong đảng, chưa bao giờ có một chính sách, hay thậm chí, một câu nói nào để lại ấn tượng sâu trong lòng quần chúng; mặt khác, bị dân chúng khinh bỉ, hoặc, nhẹ nhàng hơn, coi thường, xem là “lú”. Tính chất bảo thủ và giáo điều làm cho Nguyễn Phú Trọng, một mặt, xa rời thực tế và mù loà trước những xu thế vận động của lịch sử thế giới; mặt khác, ít nhiều ngả về phía Trung Quốc với cái ảo tưởng là cả hai đều có một lý tưởng chung: chủ nghĩa cộng sản.
Chính ba đặc điểm, bảo thủ, giáo điều và thiếu sắc sảo ấy của Nguyễn Phú Trọng làm cho dân chúng nói chung dễ có khuynh hướng ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng. Người ta thừa biết Nguyễn Tấn Dũng tham nhũng, lợi dụng chức quyền để đưa con cái vào guồng máy cai trị cũng như làm giàu một cách bất thường. Tuy nhiên, người ta vẫn tin, với Nguyễn Tấn Dũng, đất nước còn có chút hy vọng thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Với Nguyễn Phú Trọng thì không. Tuyệt đối không.
Vậy tại sao Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đảng lại chọn Nguyễn Phú Trọng?
Lý do chính, theo tôi, là: Người ta sợ sự sắc sảo. Những người thông minh sắc sảo bao giờ cũng có những phản ứng và những chính sách bất khả đoán đối với những người tầm thường. Điều này giải thích tại sao trong mấy kỳ đại hội đảng vừa qua, bao giờ người ta cũng bầu những người bình bình nhàn nhạt lên chiếc ghế tổng bí thư. Hết Đỗ Mười (1991-97) đến Lê Khả Phiêu (1997-2001), Nông Đức Mạnh (2001-2011) và từ Đại hội XI đến nay là Nguyễn Phú Trọng.
Tâm lý này phù hợp với một trong những mục tiêu chính Ban Chấp hành Trung ương đảng nêu ra trong nhiệm kỳ tới: “giữ vững môi trường hoà bình, ổn định”.
Nguyễn Hưng Quốc
Tâm lý sợ sự sắc sảo ấy gắn liền với một tâm lý khác: sợ sự thay đổi. Người ta biết chắc Nguyễn Phú Trọng không phải là một lãnh tụ tài giỏi nhưng ít nhất dưới sự lãnh đạo của ông sẽ không có gì thay đổi cả. Không thay đổi trong thể chế chính trị. Không thay đổi trong quan hệ với Trung Quốc. Và, đặc biệt, quan trọng nhất, không có gì thay đổi trong bộ máy quyền lực của đảng cũng như những quyền lợi mà các uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đang có.
Tâm lý này phù hợp với một trong những mục tiêu chính Ban Chấp hành Trung ương đảng nêu ra trong nhiệm kỳ tới: “giữ vững môi trường hoà bình, ổn định”. Nói đến “hoà bình”, người ta chủ yếu nhắm đến quan hệ với Trung Quốc; nói đến “ổn định”, người ta nhắm đến sinh hoạt chính trị đối nội: không có thay đổi gì mới trong cơ chế cũng như trong cấu trúc quyền lực trong nội bộ đảng.
Tâm lý sợ thay đổi ấy đi ngược hẳn lại xu hướng chung của lịch sử và niềm tin chung của mọi người. Việt Nam đang là nước yếu, yếu về cả kinh tế lẫn chính trị; điều Việt Nam cần nhất, do đó, không phải là giữ nguyên trạng mà phải thay đổi để tiến bộ. Sự quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, khi coi sự “ổn định” là tiêu chí quan trọng nhất để chọn lựa người lãnh đạo là một quyết định hoàn toàn sai lầm.
Năm ngoái, bà Phạm Chi Lan, một chuyên gia kinh tế tại Việt Nam, có một nhận xét rất hay về tình trạng Việt Nam hiện nay: “Trên thế giới chia ra gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển!”
Đất nước không chịu phát triển. Chỉ có quyền thế và quyền lợi của giới lãnh đạo là…phát triển vượt bậc.