Phạm Chí Dũng – Người Việt
Cứ mỗi năm ở Biển Đông, mỗi tháng ở Hoàng Sa và mỗi ngày ở bãi Tư Chính trôi qua, cơ hội của “đảng em” Việt Nam để kiện “đảng anh” Trung Quốc ra tòa án quốc tế lại càng thêm ít ỏi và khó thắng.
Mưu tính nào sau cáo buộc Việt Nam?
Sau ba lần lên tiếp xâm phạm bãi Tư Chính vào Tháng Bảy 2017, Tháng Ba 2018 và Tháng Bảy 2019, rõ ràng là giới chóp bu Bắc Kinh có mối lo ngại về việc chính quyền Việt Nam sẽ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về “đường lưỡi bò 9 đoạn” và vụ tàu Hải Dương 8, chứ không phải như một số tờ báo của Bắc Kinh luôn cho rằng Trung Quốc không hề sợ Việt Nam hay một quốc gia nào đó kiện cáo.
Vào cuối Tháng Bảy 2019, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc là Hoa Xuân Oánh đã lên tiếng cáo buộc Việt Nam “vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với bãi Tư Chính kể từ Tháng Năm,” “Trung Quốc đã thể hiện quan điểm của mình và đang liên lạc với phía Việt Nam” và “Chúng tôi kêu gọi phía Việt Nam xử lý phù hợp vụ việc.”
Tuyên bố trên được đưa ra chỉ một ngày sau khi phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam là Lê Thị Thu Hằng cho biết Hà Nội đã “trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam,” một cử chỉ can đảm mang tính quá hiếm muộn của giới chóp bu Việt Nam về thế buộc phải đối đầu với “thiên triều.”
Cách thức tuyên bố trên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc là rất tương đồng với chiến thuật lấn dần từng bước vào Biển Đông và biến các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, đặc biệt là những vùng biển có trữ lượng dầu khí lớn mà Việt Nam đang tự khai thác hoặc liên doanh với những đối tác nước ngoài để khai thác, thành vùng “tranh chấp chủ quyền” giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Cách tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực bãi Tư Chính có thể sẽ khiến một số quốc gia trên thế giới – vốn không am hiểu lắm về lịch sử chủ quyền vùng biển của Việt Nam và những mưu tính lắt léo trong “đường lưỡi bò 9 đoạn,” tỏ ra dè dặt hơn nếu những nước này có ý muốn ủng hộ Việt Nam tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, hoặc tại một tòa án quốc tế trong trường hợp Việt Nam dám kiện Trung Quốc ra trước thế giới, cho dù Việt Nam được đặt vào ghế “thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc” vào năm 2019.
Tuyên bố về “chủ quyền bãi Tư Chính” của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc còn cho thấy một ý định quá đáng sợ của Bắc Kinh mà khiến “đảng em” Việt Nam mất ngủ: Trung Quốc chưa hề có ý định rút tàu khỏi khu vực bãi Tư Chính.
Thậm chí Trung Quốc còn có thể điều động thêm những tàu thăm dò địa chất và kể cả điều động một giàn khoan khồng lồ như cái cách của Hải Dương 981 vào năm 2014, vào khu vực bãi Tư Chính để khoan dầu, như một cách ăn cướp cực kỳ trắng trợn tài sản ngay trong nhà của người khác.
Việt Nam “thế nước đang lên…”
Vào năm 2014, Hải Dương 981 đã chỉ rút khỏi Biển Đông sau hơn 2 tháng ngự trị và đã “làm tình làm tội” giới chóp bu Việt Nam chưa đánh đã sợ đến mức “đái ra quần.”
Nhưng đến năm 2019, quy mô chiến dịch gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông còn được đẩy lên một mức cao hơn so với vụ giàn khoan Hải Dương 981, đồng thời với việc tung ra một số lượng lớn từ 35-80 tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu thương mại dân sự bên cạnh tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8, Trung Quốc đang cấp tốc triển khai cấp tốc thiết lập một căn cứ quân sự hải quân lớn tại Campuchia, nằm sát lãnh thổ Việt Nam.
Những thông tin trên, tất nhiên không được cho biết bởi chế độ “chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động,” mà từ giáo sư người Úc (Carlyle Alan Thayer) công bố trên trang Twitter của ông.
Trong khi đó, phía Việt Nam chỉ có khoảng một chục tàu. “Thế nước đang lên” của Việt Nam – như bài ca tự sướng của giới tuyên giáo đảng – so với Trung Quốc là hoàn toàn chổng ngược…
Đã có thể khớp nối thông tin về căn cứ hải quân của Trung Quốc ở Campuchia với một phát ngôn công khai gần đây của quan chức bộ trưởng quốc phòng Việt Nam là Ngô Xuân Lịch về “chủ động đánh giá đúng tình hình biên giới Tây Nam.” Theo đó, giới quân sự Việt Nam đang phải cấp tốc điều quân đội và khí tài quân sự nhằm đối phó với “mặt trận thứ hai” của Trung Quốc tại vùng biên giới Campuchia-Việt Nam.
Một dự luật về tình trạng tổng động viên cũng đang được Quốc Hội Việt Nam gấp rút xem xét. Tiêu chí đầu tiên của hành động này là tình trạng chiến tranh và tình trạng nguy cấp về quốc phòng.
Nhưng vẫn là thói ươn hèn mãn tính?
Vào năm 2014, vụ giàn khoan Hải Dương 981 rốt cuộc chỉ là cú răn đe của Bắc Kinh đối với Bộ Chính Trị Việt Nam, nhằm mục đích tranh cướp các lô dầu khí ở Biển Đông.
Khi đó, Trung Quốc cũng cho nhiều tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu thương mại dân sự chạy vòng quanh giàn khoan Hải Dương 981, cùng xịt vòi rồng và đâm va ở mức độ nhẹ với tàu Việt Nam.
Khoảng hơn hai tháng sau, trong lúc giới chóp bu Việt Nam vẫn hoàn toàn bất lực về đối sách với Trung Quốc và cũng chẳng dám có hành động mạnh mẽ nào trước Trung Quốc, Bắc Kinh chợt tuyên bố rút giàn khoan Hải Dương 981 về nước vì “đã hoàn thành nhiệm vụ.”
Nhưng vụ bãi Tư Chính năm 2019 có vẻ không chỉ là dọa dẫm như năm 2014. Cho tới nay, tàu Hải Dương 8 và một số tàu hải cảnh của Trung Quốc vẫn “khiêu vũ” ngay trước mũi Bộ Chính Trị Việt Nam và trước một quân chủng hải quân có đến 6 tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga, nhưng giờ chẳng biết bỏ đâu (có ý kiến cho rằng chắc các tàu ngầm này còn phải lo chống ngập ở Hà Nội và Sài Gòn).
Tình trạng vuốt mặt không thèm nể mũi trên đã kéo dài hơn một tháng, nếu không muốn nói là đã hơn hai tháng kể từ khi Trung Quốc điều tàu gây hấn tại mỏ Lan Đỏ – dự án liên doanh giữa Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam với Tập Đoàn Dầu Khí Rosneft của Nga.
Cũng cho tới nay và rất tương đồng với tinh thần “hèn với giặc, ác với dân” của năm 2014 và tại nhiều thời điểm khác, chính quyền và giới quân sự Việt Nam vẫn “rúc mặt” mà không dám hành động mạnh mẽ trước Trung Quốc. Vào lần này, kịch bản mà có lẽ được giới chóp bu Việt Nam kỳ vọng nhất là đành chấp nhận một phần hải phận cho tàu Trung Quốc khai triển và thực thi chiến thuật” vờn tàu,” chờ cho đến khi “bạn vàng” phải tự động rút tàu, chủ yếu do gánh nặng chi phí.
Nhưng đó chỉ là tính toán chủ quan của những kẻ bất lực, trong khi chẳng có gì bảo đảm là Trung Quốc sẽ rút hết tàu sau 2 tháng, thậm chí sau 3 tháng ngự trị ở khu vực bãi Tư Chính.
Và thậm chí cho tới thời điểm này, Trung Quốc còn tạm thời giành được một lợi thế trên phương diện quan hệ quốc tế: Hội Nghị Các Bộ Trưởng ASEAN diễn ra ở Thái Lan vào cuối Tháng Bảy, đầu Tháng Tám 2019 đã chỉ đề cập khá chung chung và “quan ngại” về tình hình Biển Đông mà không hề nhắc đến cái tên Trung Quốc.
Trong khi đó, Hoa Kỳ, đối trọng duy nhất của Trung Quốc trên thế giới, cũng là quốc gia đầu tiên và có lẽ duy nhất lên tiếng gián tiếp ủng hộ chính quyền Việt Nam phản đối Trung Quốc can thiệp vào bãi Tư Chính, đã trở nên dè dặt hẳn về những phát ngôn và hành động tiếp theo, sau khi chứng kiến giới chóp bu Việt Nam vẫn như bị vẹo xương sống trước “người đồng chí tốt.”
Chưa có gì rõ ràng về triển vọng hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của Hải Quân Mỹ, đang tiến hành tuần tiễu ở Biển Đông, sẽ can thiệp trực tiếp vào vụ bãi Tư Chính.
Nếu khả năng tàu Trung Quốc kéo dài vụ xâm nhập bãi Tư Chính xảy ra, mà xác suất của khả năng này đang được giới phân tích chính trị cho là ngày càng lớn, Việt Nam sẽ phải đối phó ra sao? Tiếp tục phát cờ cho ngư dân để “thuyền ra biển lớn” và làm rộ lên câu vè dân gian “Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động”? Hay tiếp tục kêu gọi quốc tế mau chóng can thiệp? Liệu Hải Quân Việt Nam có dám nổ súng nếu tàu Trung Quốc gây hấn? Và nếu nổ súng, Bộ Quốc Phòng Việt Nam đã chuẩn bị ra sao cho những kịch bản đen tối không thể tránh khỏi cho một cuộc xung đột quân sự ở quy mô nhỏ hoặc vừa, hay thậm chí là chiến tranh thực sự với Trung Quốc?
Thói ươn hèn mãn tính là tác nhân của căn bệnh nhũn não dài hạn và mất đứt lãnh thổ. Ngay cả lúc bị kẻ cướp xông vào nhà mà còn không dám kiện thì làm sao tránh khỏi thân phận Trần Ích Tắc!