Tháng Năm 2016 – trùng với một thông tin trên mặt vài tờ báo nhà nước về “Chính phủ Mỹ nợ Việt Nam 12 tỷ USD” và chuyến “vay tiền giảm nghèo” ở Nhật của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, một báo cáo của Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại – Bộ Tài chính cho biết nhà nước vẫn còn một nguồn ngoại tệ cực kỳ dồi dào. Đó là số vốn ODA mà các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết (hoặc chưa giải ngân) với Việt Nam lên đến 22 tỉ USD!
Trong bối cảnh nợ đến hạn phải trả cho nước ngoài – khoảng 20 tỷ USD cho năm 2015 và cũng có thể chừng đó hoặc hơn trong năm 2016 – là quá lớn so với nguồn thu ngày càng èo uột của ngân sách và tình trạng ngân sách sắp rỗng ruột, con số 22 tỷ USD vốn ODA quả là quá hấp dẫn. Nếu toàn bộ số vốn này được giải ngân ngay lập tức theo phương châm mà phía Việt Nam ưa dùng là “linh hoạt” hay “đặc cách”, có thể tưởng tượng gương mặt giới quan chức ăn xổi sẽ sáng bừng đến thế nào, bởi món quà từ trên trời rơi xuống này không những giúp cầm hơi chế độ mà còn tạo “công ăn việc làm” cho các nhóm lợi ích quen đục khoét vốn ODA.
Từ nhiều năm qua, ODA đã trở thành một trong những quốc nạn về tham nhũng. Tỷ lệ thất thoát bình quân tại nhiều dự án ODA được đồn đoán khoảng 20 – 25%. Nhưng đó chỉ là mức “hợp pháp”. Thậm chí tỷ lệ “lại quả” ODA còn vọt đến 40% – được chứng thực bởi một dự án xây dựng trường tiểu học ở Hà Tĩnh và giai đoạn 2009 – 2010.
Có rất nhiều dẫn chứng về lãng phí và “ăn dày” ODA. Năm 2015, báo chí phản ánh công trình cầu vượt Giá Rai (thị xã Giá Rai, Bạc Liêu) được xây dựng với tổng vốn đầu tư 290 tỉ đồng rồi… bỏ không khoảng ba năm nay do hết vốn làm đường dẫn, gây lãng phí. Hoặc dự án trích dầu cám ở Bến Tre, dự án dây chuyền dệt bao đay ở TP.HCM, dự án nhà máy thủy sản đông lạnh Hạ Long, chương trình phát triển dâu tằm tơ ở Lâm Đồng và hàng loạt dự án cơ khí, cấp nước, nông nghiệp vay vốn ODA từ Pháp, Đức không hiệu quả…
Một loạt dự án sử dụng vốn ưu đãi, nhất là lĩnh vực giao thông, chậm tiến độ và đội vốn lớn so với tổng mức dự kiến đầu tư ban đầu như dự án tuyến metro Nhổn – ga Hà Nội, dự án xây dựng tuyến metro số 1 (Bến Thành-Suối Tiên) và dự án metro tuyến Bến Thành-Tham Lương ở TP.HCM…
Rõ ràng đó là lý do vì sao ngay cả những quốc gia được coi là có “thiện cảm” với Việt Nam như Đan Mạch, Thụy Điển, Úc… cũng phải thẳng tay cắt giảm viện trợ ODA đối với chính quyền “ăn của dân không chừa thứ gì.”
40% của 22 tỷ USD bằng bao nhiêu?
Không hẳn là “đói cho sạch”, mà những quốc gia giàu có nhất lại thường có ý thức tự trọng nhất. Người dân ở những nước này khó lòng mà chấp nhận tiền đóng thuế của họ được sử dụng để “giảm nghèo” cho các quan chức của chế độ của nước được viện trợ.
Họ lại càng không thể chấp nhận khi chế độ đó còn ung dung ngự trị bằng tiền viện trợ để đè đầu cưỡi cổ lớp dân chúng lầm than chỉ dám gào lên khi sắp chết.
Liệu các cơ quan như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Á châu (ADB) và Nhật Bản – những chủ nợ lớn nhất của Việt Nam – có thấu hiểu được nỗi đau của người dân Việt?
Mặc dầu nhiều lần quốc tế đề nghị Việt Nam phải có cơ chế giám định độc lập về hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA, các bộ ngành và chính phủ Việt Nam vẫn nhắm mắt bịt tai. Cứ sau 5-7 năm, một nghị định về tiếp nhận, quản lý và sử dụng ODA lại được chính phủ ban hành. Nhưng lần nào cũng vậy, chẳng có bất cứ điều khoản nào cho thấy người dân được thông báo đầy đủ những thông tin ODA liên quan đến những dự án liên quan mật thiết đến dân sinh, cũng chẳng có chuyện người dân và Xã hội dân sự được đóng góp ý kiến và phản biện đối với những bất cập, bất công và nạn tham nhũng kinh hoàng trong môi trường ODA của giới quan chức.
Các nước Tây Âu và Bắc Âu cũng tài trợ cho Chính phủ Việt Nam trong vài chục năm qua để “cải cách luật pháp” và “chống tham nhũng”, nhưng việc này dường như cũng không mang lại mấy kết quả. ODA vẫn là miếng mồi béo bở nhất cho có giới chức tham nhũng ở Việt Nam.
Nếu tỷ lệ 40% được “ứng dụng thành công” vào con số 22 tỷ USD vốn ODA còn lại sẽ được ký kết và giải ngân cho Việt Nam, sẽ có ít nhất hàng chục tỷ đô la viện trợ tuồn thẳng vào túi giới quan chức – vốn đang quá bức xúc vì “không biết lấy gì để ăn” trong bối cảnh ngân sách “không biết lấy gì để tiêu”.
Và sẽ lại diễn ra những cảnh “gương người tốt việc tốt” kinh hoàng nhất của quốc nạn ODA như Trưởng ban PMU 18 Bùi Tiến Dũng – tắm bia và ôm gái, hay Trưởng ban PMU Đông-Tây là Huỳnh Ngọc Sĩ – nhận số tiền hối lộ ít nhất 800.000 đô la – suýt nữa đã làm sui với gia đình cựu bí thư thành ủy TP.HCM Lê Thanh Hải…
Làm thế nào để ODA không trở thành “giá súng” ở Việt Nam?
Có thể vì quá thất vọng trước thành tích quá yếu kém về “quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA” của Việt Nam, từ cuối năm 2015 đến đầu năm 2016, lần lượt WB, IMF rồi đến ADB đều thẳng thừng tuyên bố sẽ chấm dứt các khoản cho vay ODA với lãi suất ưu đãi.
Đến tháng 7/2017, Việt Nam sẽ không còn được vay theo điều kiện ODA, mà phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ 2%-3,5%.
Vào đầu năm 2016, đại diện WB gặp chính phủ Việt Nam – cả thủ tướng cũ là Nguyễn Tấn Dũng lẫn thủ tướng mới là Nguyễn Xuân Phúc – đã nói thẳng là WB chỉ hỗ trợ Việt Nam với điều kiện chính phủ phải chống tham nhũng một cách hiệu quả.
Nhưng làm thế nào để đạt được “hiệu quả”?
Muốn chống được tham nhũng, ít nhất người dân phải được cất tiếng nói, thay vì bị bóp nghẹt. Không phải ngẫu nhiên mà vào cuối năm 2015, trong một lần dự hội thảo “Phát triển Việt Nam” do Thủ tướng Dũng chủ trì, phía WB đã trao cho Việt Nam một bản khuyến nghị 7 điểm, với điểm đầu tiên đặc biệt chưa từng thấy: Việt Nam cần sớm ban hành luật Lập hội.
Nếu không có nhân quyền, bài học ODA trở thành “giá súng” cho chế độ độc tài đã từng thấm máu dân chúng ở nhiều quốc gia trên thế giới sẽ lặp lại ở Việt Nam. Nhiều chế độ và nhà độc tài đã vay mượn từ nước ngoài, biển thủ vốn vay cho các mục đích cá nhân, và để lại nhiều khoản nợ cho công chúng mà họ cai trị: chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi vay mượn ODA suốt thập niên 80 trong khi phần lớn ngân sách được dùng tài trợ quân đội và cảnh sát để đàn áp những người dân gốc Phi. Giờ đây, người dân Nam Phi gánh chịu số nợ của những kẻ đã đàn áp họ. Mobutu Sese Seko ở Zaire đã tích lũy hơn 12 tỉ USD nợ công trong khi Mobutu chuyển công quỹ vào các tài khoản cá nhân của hắn tổng cộng lên đến 4 tỉ USD (vào giữa thập niên 80) và sử dụng chúng để duy trì quyền lực thông qua việc nuôi dưỡng thuộc hạ và thanh toán chi phí quân sự. Fernando Marcos của Philippines khi mất quyền lực năm 1986 cũng để lại khoản nợ nước ngoài 28 tỉ USD, trong lúc tài sản cá nhân của Marcos được ước tính lên đến 10 tỉ…
Không nên có thêm “giá súng” ở Việt Nam. Lực lượng công an tại quốc gia này luôn được dành cho một phần lớn trong cái bánh ODA để nuôi dưỡng mức sắt máu trong việc áp chế nhân dân.
9 trong số 15 chiếc ghế bị bỏ trống tại cuộc gặp của Tổng thống Mỹ Barack Obama với các đại diện của Xã hội dân sự Việt Nam vào tháng 5/2016 là hình ảnh rõ ràng nhất về thực trạng nhân quyền ở Việt Nam. Nếu ngay cả những khách mời của Tổng thống Mỹ mà còn bị công an Việt Nam ngăn chặn và câu lưu bất hợp pháp tại nhà riêng và tại đồn cảnh sát, thì cơ chế đàn áp một cách liên tục và có hệ thống của chính thể Hà Nội đối với các quyền tự do tôn giáo, tự do hội họp, tự do báo chí, công đoàn độc lập, tù nhân chính trị là một thực tế hết sức dễ hiểu.
Và nếu ông Obama không phải công du mà đi du lịch Việt Nam, hãy coi chừng một ngày nào đó chính ông sẽ bị công an đất nước này cấm chỉ không cho ra khỏi khách sạn.
Hãy cài nhân quyền vào các khoản cho vay tín dụng!
Đã đến lúc cần suy nghĩ một cách nghiêm túc về việc đề ra nhân quyền như một trong những điều kiện tiên quyết vào các chương trình cung cấp tín dụng, đặc biệt là vốn ODA.
Và đặc biệt là cài nhân quyền vào kế hoạch cung cấp 22 tỷ USD vốn ODA còn lại cho Việt Nam, dù số tiền này đã được ký theo từng dự án hay mới chỉ là cam kết theo lộ trình đến năm 2020 và sau năm 2020.
Nghị định quản lý và sử dụng vốn ODA của Việt Nam phải được cải cách triệt để. Người dân và những tổ chức giám định độc lập ODA của nước ngoài phải được tham gia trong tiến trình hoạch định và phân phối.
Có thế thì viện trợ ODA mới được sử dụng đúng mục đích, và nhất là không bị lạm dụng cho mục đích “chi thường xuyên,” bao gồm chi cho lực lượng công an.
Hiệu quả “chống tham nhũng” trong quản lý vốn ODA phải được Chính phủ Việt Nam và các bộ ngành, địa phương liên quan chứng minh được trước các nhà tài trợ. Không thể để tái hiện hình ảnh một nhà tài trợ nước ngoài rút khăn mù xoa lau hai lần tay mình sau khi bắt tay một quan chức Việt Nam trong một cuộc hội thảo chống tham nhũng ở Hà Nội.
Nếu từ năm 2014 giới nghị sĩ Mỹ đã cài quyền tự do tôn giáo vào TPP thì tại sao WB, IMF, ADB và những quốc gia như Nhật Bản lại không gắn những khoản cho vay tín dụng với Xã hội dân sự, tự do ngôn luận, tự do thông tin và quyền “dân chủ cơ sở” của người dân để buộc giới quan chức Việt Nam phải sử dụng đúng đắn khoản tiền đóng thuế của công dân các nước viện trợ?