Kính thưa quý thính giả, trong mục bình luận hôm nay và kỳ tới, chúng tôi xin gửi đến quý vị bài viết nhan đề “Biển Đông một thời sủi bọt” của tác giả Đỗ Xuân Tê. Bài được đăng trên trang blog Quê Choa. Sau đây mời quý vị nghe phần một của bài viết.
Nếu Trường sơn trở thành chốn giao tranh ác liệt của những kẻ coi nhau như kẻ nội thù, trong chuỗi dài lịch sử ba mươi năm nội chiến từng ngày thì biển Đông coi vậy mà hiền, được coi như dòng chảy đưa những con tàu xuyên đại dương băng ngang hải phận như một lộ trình ngã tư quốc tế, tuyệt nhiên nước không tanh mùi máu, gió không khơi mùi tử khí, sóng vỗ đều êm ả như biển thái bình.
Chỉ một lần vào năm 74, khi hai người anh em cùng cha khác mẹ lo quần thảo nhau trên rừng trên đất, thì đột nhiên nước biển Đông sủi bọt. Tàu chiến của người vừa là đồng chí vừa là anh em của các lãnh đạo Hà nội từ Hải nam tiến chiếm Hoàng Sa. Lúc này Hoàng Sa là của Việt nam, đất mẹ muôn đời phải gìn giữ nên chính quyền miền Nam không chịu làm ngơ. Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã xuất trận. Rất tiếc lực lượng không đủ mạnh, khiến hạm trưởng Ngụy văn Thà cùng 58 chiến sĩ đã ở lại với biển. Hoàng Sa tạm thời bị mất về tay địch. Đâu đây mùi tử khí đã vận hành theo gió, con tàu Nhật Tảo HQ 10 như con chim báo bão cho một ngày không xa sẽ có những tranh chấp lớn tại biển Đông.
Ngày ấy cũng chẳng xa, mười bốn năm sau, người ta quen gọi là ‘sự kiện 14 tháng 3’ (1988), tàu lạ Trung quốc lại bất ngờ tấn công ba đảo của quần đảo Trường Sa là Gạc Ma, Cô-lin và Len Đao. Lần này chánh quyền Hà nội phải đối mặt, do thiếu cân bằng lực lượng và cảnh giác từ phía chủ nhà, thuyền trưởng Trần Đức Thông cùng 64 chiến sĩ của con tàu HQ 604 lại chung số phận với thủy thủ đoàn khu trục hạm Nhật Tảo năm xưa. Trung quốc chiếm được Gạc-Ma và chỉ một tháng sau Hoàng Sa và Trường Sa chính thức nằm trong biên cương của tỉnh Hải nam, buộc Hà-nội phải chấp nhận chuyện đã rồi vô phương tranh cãi.
Cùng biến thiên với sự đổi thay của vận nước, biển Đông đột nhiên trở thành một địa danh hãi hùng, mồ chôn của bao sinh linh con dân đất Việt bất kể già trẻ lớn bé tự chọn con đường liều chết rời bỏ quê hương, lênh đênh trên những chiếc thuyền nan, thuyền gỗ phó mặc cho số mệnh nổi trôi đẩy đưa đến những bến bờ vô định với hi vọng tìm được tự do no ấm, nhân quyền nhân phẩm cho kiếp người. Cũng từ đây, một từ vựng quốc tế ra đời ‘thuyền nhân’ (boat people) đánh dấu cho một thời kỳ khổ nạn mà lịch sử Việt cũng như thế giới chưa có một cuộc xuất dương bỏ nước ra đi nào vĩ đại như vậy. Ba mươi năm sau, lịch sử như được lập lại. Những tiếng vọng uất ức – Hoàng Sa! Trường Sa! – được tha thiết vang lên không phải chi người trong nước, trớ trêu thay hăng hái nhất lại là những kẻ một lần bỏ nuớc ra đi do hệ quả tham vọng bá quyền của những người đã ‘dạy cho Việt nam một bài học’. Lần này họ đi xa hơn bằng cách vẽ lại bản đồ cho vùng lãnh hải của họ. ‘Cái lưỡi bò’ xuất phát từ Hải nam thè ra liếm trọn một vùng xuống tận cực nam tiếp giáp lãnh hải Philippines/Indonesia, nuốt chửng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà họ ngang nhiên tuyên bố là ao nhà của dân tộc Hán. Bản đồ này không phải chỉ là tài liệu tung trên mạng, mà trở thành văn bản phụ đính cho tập hồ sơ của phía Trung Quốc công khai gởi Liên Hiệp Quốc để biện minh cho chủ quyền lãnh thổ của mình, khi người đồng chí láng giềng lâu năm của họ thất thế phải kiện cáo cơ quan trọng tài tối cao này dựa theo Công ước Luật biển 1982 mà cộng đồng quốc tế cùng thừa nhận ký kết.
Chẳng phải ngẫu nhiên khi Trung quốc họ làm như vậy. Từ nhiều thập niên qua khi phong trào thuyền nhân đi vào yên nghỉ, mùi tử khí nhạt dần thì mùi dầu khí lại được các bên hữu quan đánh hơi bén tiếng. Biển Đông không còn đơn thuần là dòng chảy giao lưu quốc tế mà trong cách nhìn chiến lược nào đó, trở thành tiềm năng vô tận cho những giếng vàng đen của các thập niên sau. Các nước quanh vùng đua nhau tuyên bố chủ quyền, thậm chí Đài Loan không có một chút biển nào dính liền với biển Đông cũng đem quân đến ăn có một vài đảo quanh vùng Trường sa, chưa kể mấy nước ASEAN trong đó có Thái, có Mã lai, Brunei, Indonesia cũng nhận xằng lãnh hải, quanh một quần thể gồm nhiều đảo nhỏ mà chánh quyền VNCH đã phái một đại đội Địa phương quân của tiểu khu Bà rịa Phước tuy thường xuyên trú đóng để bảo vệ hải phận tiền đồn của Tổ quốc.
Kẻ viết bài này có một dịp đã theo tàu tiếp tế lương khô đem toán văn nghệ dã chiến ra khơi giúp vui cho chiến sĩ và gia đình trên đảo, sau đó vòng về Côn Đảo cách đó không xa. Ngày ấy chẳng có ma nào nhòm ngó đến chốn khỉ ho cò gáy này, báo chí quốc tế thì mải lo khai thác chuyện chuồng cọp bôi xấu chế độ miền Nam.
Nhìn lại Hoàng Sa cũng chỉ là hòn đảo nhỏ hơn cả Lý Sơn (Quảng ngãi) với thổ sản duy nhất là phân chim chẳng ai buồn khai phá, có chăng là các đội thuyền buồm của quan quân triều Nguyễn vãng lai ra cắm cọc mốc như một hình thức minh xác chủ quyền tuần duyên quanh đảo hoặc các tàu đánh cá viễn khơi của ngư dân vùng Quảng táp vào tránh bão mỗi khi gặp nạn trên biển Đông. Sau này, Thủ tướng của miền Bắc vì lý do ‘nhạy cảm’ đã ký văn bản nhường quyền cho Mao Chủ tịch vì nhà nước nghĩ rằng xá gì một đảo nhỏ xa xôi khi tình hữu nghị anh em là điều kiện sống còn cho mối quan hệ quốc tế vô sản. Có ngờ đâu chỉ nửa thế kỷ sau Hoàng Sa trở thành một phần của huyện đảo Tam Sa, nối dài cho sân sau của bá quyền Đại Hán, trở thành tâm điểm cho một đường kính hàng ngàn hải lý quét đủ một vòng ôm trọn biển Đông!
Kính thưa quý thính giả, trong bối cảnh đường lưỡi bò trở thành tâm điểm cho một đường kính hàng ngàn hải lý quét đủ một vòng ôm trọn biển Đông đó, các phe hữu quan đã hành xử ra sao? Đặc biệt là những người cầm quyền tiếp nối một nhà cầm quyền đã bán đứt vùng biển nhuộm đầy máu và mồ hôi của người Người Việt Nam cho phương Bắc, để được ban tặng hai câu thơ vỗ về của Giang Trạch Dân trong hội nghị Thành Đô năm 1991? Mời quý vị đón nghe phần hai vài viết của tác giả Đỗ Xuân Tê sẽ được gừi đến quý vị trong mục bình luận kỳ tới.
http://bolapquechoa.blogspot.ca/2014/01/bien-ong-mot-thoi-sui-bot.html