Ngày mai, cách đây 45 năm trước (17/2/1979), Trung Quốc đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, buộc quân dân ta phải cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước. Đây là một cuộc chiến tranh khốc liệt trước sự tàn bạo dã man của quân Trung Quốc.
Hôm qua (mồng 6 Tết Giáp Thìn) chúng tôi xuất hành từ Hà Nội lên Hà Giang. Tháng 2/1979 Hà Giang (khi ấy còn nhập chung với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên) là một mặt trận ác liệt chống lại quân bành trướng Trung Quốc, mà ác liệt nhất là chiến trường ở huyện Vị Xuyên.
Chúng tôi đã đến hang Dơi, nơi đặt sở chỉ huy mặt trận Vị Xuyên.
Chúng tôi đã đến đền thờ các anh hùng liệt sĩ mặt trận Vị Xuyên xây dựng tại chính cao điểm 468 ác liệt năm xưa, giữa một vùng đồi núi mà trong vòng 10 năm đã phải hứng chịu hơn 2 triệu quả đạn pháo từ bên kia biên giới bắn sang và để bám giữ đỉnh 1509 (mà TQ gọi là Lão Sơn) có ngày hơn 600 chiến sĩ của ta đã phải hy sinh, khiến nơi đây được gọi là “lò vôi thế kỷ”.
Chúng tôi đã đến hang Nà Cáy nơi đặt trạm phẫu tiền phương của mặt trận Vị Xuyên (cách cửa khẩu Thanh Thuỷ giao tranh ác liệt 3km) mà bài thơ dưới đây của một cựu chiến binh sư đoàn 313 ngày ấy đã mô tả sự đau thương đau đớn vô cùng. Hang bây giờ đã bị xây tường chắn phía ngoài.
Thắp hương biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc 45 năm trước ở Vị Xuyên chúng tôi biết trang sử bi thương này của đất nước phải được nhớ và ghi.
HANG PHẪU NÀ CÁY, VỊ XUYÊN- MÙA THU… MÁU!
Trần Nam Thái
(CCB F313)
Mấy hôm rồi không một chuyến xe lên
Nà Cáy buồn quay quắt
Xác tử sỹ chất đầy bãi đất
Qua một đêm thôi chuột móc hết mắt rồi
Trên thân xác đã trương lên nhung nhúc những đàn giòi
Và ngờm ngợp những đám mây ruồi nhặng
Gió từ dưới sông Lô và đường quốc lộ 2 thốc lên dè dặt
Gió từ đỉnh 812, đỉnh 673 phía trên kia đổ xuống ào ào
Những cơn gió vô tâm, những cơn gió vô tình như cuộn vào nhau
Xộc vào toang hoác xác thân những người lính đã ngã xuống
Xộc vào hoang hoải bần thần tim óc những người lính đang còn sống
Ngách đá kho hậu cần trống rỗng
Gạo mắm đã chia đến từng căn hầm
Khe suối mùa khô chắt nước âm thầm
Quần áo lính giặt xong càng đỏ bầm màu đất
Mảnh đạn dọc ngang chém áo quần rách nát
Suối cũng oằn mình đội pháo giặc suốt ngày đêm
Mấy hôm rồi không thấy xe lên
Cả thung lũng sặc sụa mùi khói đạn
Vách đá trên cao đạn cào trắng toát
Mặt đất dưới sâu đá lật ngổn ngang
Những căn hầm trúng đạn vỡ tan hoang
Những mái nhà âm cháy thành than trơ trụi
Thấp thoáng bóng người lầm lụi
Vác đá, chặt cây, đào đất khoét hầm
Hang phẫu ngổn ngang lính nằm
Những vết thương đỏ m.áu
Những cuộn băng đỏ m.áu
Áo Blu quân y đỏ m.áu
Khắp lòng hang sực lên mùi m.áu, mùi cồn
Điện thoại đổ chuông từng nhịp dập dồn
Tin báo về chuẩn bị đón thương binh từ phía trước
Bác sỹ gầm lên hết băng, hết thuốc
Y tá ngẹn ngào hết sạch nước truyền
Lại phải cho người chạy bộ xuống Làng Pinh
Lấy tạm vài cơ số thuốc
Bên kia bờ khe nước
Lính vận tải nối nhau lục tục lên đường
Ba lô đạn nhọn đè nặng trên lưng
Đòn tre cáng thương, dài ngoằng chổng ngược
Manh võng cáng thương ướt đẫm từ chuyến trước
Phập phờ rỏ nước thối xuống khắp người
Đường xe lên đất đá tơi bời
Hố pháo mới chồng lên hố pháo cũ
Mảnh đạn ngổn ngang bên cây cỏ xới nhào
Có mảnh lẹm sắc như dao
Có mảnh nhọn hơn lá lúa
Chạm vào là máu ứa
Chạm vào là rách thịt da
Những bàn chân mang giày vải vẫn xầm xập chạy qua
Lưng còng xuống, mặt ngẩng về phía trước
Nơi ấy đang cần đạn
Nơi ấy thương binh chờ
Vượt ngã ba cửa tử
Vào Hang Dơi, Làng Lò
Những gương mặt lính sáng lên, rồi lại thẫn thờ
Chẳng có gì đâu trong ba lô toàn đạn nhọn
Bởi mấy hôm rồi chẳng có chuyến xe lên
Những dấu hỏi hằn gương mặt sạm đen
Nỗi buồn tủi ẩn trong lời cảm thán :
“Hay là đã quên ? Hay là đã bán ?
Hay là đã chán ? Hay là phủi tay ?…”
Gạt đi giọt nước mắt cay
Tay khẽ khàng đặt thương binh lên võng
Lại vượt qua suối sâu, đường lộ thiên, bãi trống
Mang tai bập bùng tiếng nổ, tiếng rên đau
Mặc kệ đạn trên cao
Mặc kệ đạn dưới thấp
Nghe tiếng đạn quen mới nằm xấp xuống mặt đường
Đá đập vào người, đá thúc vào xương đau nhức
Đợi đến khi đạn dứt
Lại tất tưởi chồm lên, vai nặng trĩu đòn khiêng
Những thân người chạy liêu siêu ngả nghiêng
Hướng về phía Nà Cáy
Đoạn đường dốc lên đạn pháo cày nát bấy
Đã có lính nào sửa sang
Mùi máu, mùi cồn vẫn nồng nực trong hang
Lính bị thương nằm ngổn ngang dồn đống
Thở phào vì thương binh vẫn sống
Tay lại khẽ khàng gỡ khỏi võng với đòn tre
Bãi tử sỹ nằm bên cạnh bờ khe
Hình như đã nhiều hơn lúc trước
Lại nghe đâu đây rúc rích tiếng chuột
Những con chuột đói khát, những con chuột vô tâm
Lần bước đến nơi tử sỹ đang nằm
Bê những mảng đá to đặt đè lên từng khuôn mặt
Che đi những quầng mắt đã lặng ngủ im
Che đi những con mắt không thể nào khép lại
Cơn gió mùa Thu như lồng lên quằn quại
Hình như gió cũng rưng rưng
Mấy hôm rồi mà chẳng thấy xe lên
Chẳng biết đêm nay có chuyến nào tới được
Để đón anh em về một chốn bình yên
Để đưa anh em về trước…
(Nà Cáy-Thanh Thủy-Mùa thu 1986)