“Điều gì các viện sử quốc doanh không làm, người lính sẽ tự làm lấy. Đó là ý nghĩ bất chợt của tôi khi đọc đến trang cuối cùng tập bản thảo của một người lính có mặt tại Cao Bằng tháng 2-1979. Hơn 180 trang viết ngồn ngộn tư liệu, đang rất thô mộc. Vì thô mộc như những người lính nên nó quá sống động và vô cùng chân thực”.
Trên đây là mấy dòng tôi viết vào ngày 21-4-2020, khi cuốn sách vẫn đang ở dạng bản thảo. Gần 3 năm sau, bác sĩ Nguyễn Thái Long đã bổ sung rất nhiều tư liệu và cuốn sách chính thức được xuất bản có tên: TIẾNG VỌNG ĐÈO KHAU CHỈA [369 trang, Nhã Nam ấn hành].
Bác sĩ Nguyễn Thái Long là người mà vào ngày 17-2-1979, khi chiến tranh xảy ra đang là y sĩ của tiểu đoàn 1, trung đoàn 567.
Cuốn sách là những trang hồi ức về trung đoàn. Một trung đoàn, trong những năm 1977, 1978, chỉ được giao khoét núi mở đường; cho tới tháng 12-1978, tức là chỉ còn mấy chục ngày trước Chiến tranh, vẫn không được huấn luyện sẵn sàng, không được trang bị đầy đủ vũ khí, không được bổ sung quân số… Một trung đoàn địa phương mà đã phải đối đầu với hai sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo dàn… suốt 12 ngày đêm ở Tà Lùng, Khau Chỉa…
Có những trang viết như những thước phim:
“Một đám rất đông lính Trung Quốc bu quanh cây nhãn ở ngã ba thị trấn. Một sỹ quan của ta bị chúng buộc dây vào chân rồi treo ngược lên cành nhãn. Anh ấy bị tra tấn… Từ xa nhìn qua ống nhòm chỉ thấy anh rũ rượi, quằn quại… Một lúc sau, anh dãy lên vài cái rồi hy sinh. Mấy cậu trinh sát định nã vào đám lính Tàu mấy loạt AK nhưng anh Khắc ngăn lại, tầm bắn hơi xa, vả lại nhiệm vụ chính là đi trinh sát. Anh Khắc mắt đỏ hoe…”
Có những trang viết làm ta lặng người đi:
“Sáng sớm 2-3, bọn tàu tràn vào đen đặc cả cánh đồng… Hai nữ y tá của đại đội quân y trung đoàn là Đinh Thị Tuyến và Nguyễn Thị Huệ không còn đường rút đành đưa thương binh nặng ở lại hang Keng Riềng (Ngườm Hẩu) ẩn náu, cùng đi có cả mấy người dân tự nguyện giúp bộ đội chăm sóc thương binh. Cả hang chỉ có một khẩu CKC với mấy chục viên đạn…, Tuyến và Huệ đã bắn những viên đạn cuối cùng vào đám lính Trung Quốc tấn công lên hang. Bọn lính chặn cửa hang, dùng súng phun lửa, B40, B41 bắn vào… Hang Keng Riềng cháy đen khét lẹt, những xác người bị cháy thui co quắp, nứt toác…”
Có những trang viết làm máu trong người ta sùng sục sôi:
“…Ngày 28-2, liên lạc trung đoàn về báo cho đội văn công và trung đoàn bộ ở bản Chang về xã Hoàng Hải để rút cùng trung đoàn… Đoàn người hôm đó khoảng hơn bốn chục người, chủ yếu là nữ, vũ khí chỉ có 1 AK và 1 CKC… Vượt quốc lộ 3, đoạn Lũng Xỏm, Lạc Diễn chừng một cây số thì đụng ổ phục kích của lính Trung Quốc. Minh Lý nổ súng chặn giặc và hô anh chị em chạy lên núi. Chỉ có mấy người chạy thoát… Bọn lính Trung Quốc quây bắt được mười mấy người, chúng đâm chết mấy chiến sỹ nam, các chiến sỹ nữ văn công bị đám lính Trung Quốc lao vào xâu xé hãm hiếp, rồi dùng cọc nhọn, lưỡi lê đâm nát thi thể các cô gái. Hai mươi người bị giết hại, các thi thể nữ không một mảnh vải bị chúng phơi ngoài cánh đồng mấy ngày…”
Và, có những trang viết về người lính khi tiếng súng đã tạm yên vẫn làm ta khóc to lên nức nở:
“Tuần đầu tiên sau chiến tranh có một việc bất ngờ là tiểu đoàn được xem văn công xung kích ngay tại trận địa… Tốp ca nam ba người hát “Làng tôi sau lũy tre mờ xa…” Nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ quê rớt nước mắt. Suốt hơn một tháng, tin tức chỉ được nghe qua chiếc radio của chính trị viên, thư từ liên lạc bị ách hết, biết chắc mẹ ở nhà rất nóng ruột chờ tin…
Tôi nói với một cậu văn công: “Bạn về Thái Nguyên, đánh điện về cho gia đình tôi mấy chữ rằng tôi còn sống kẻo mẹ tôi khóc hết nước mắt.” Cậu văn công nghe xong nói nhỏ với anh Trưởng đoàn. Anh Trưởng đoàn đứng lên nói to, các đồng chí hãy cho chúng tôi địa chỉ về đến Thái Nguyên chúng tôi sẽ tìm cách báo tin về nhà sớm nhất. Anh vừa dứt lời, rào rào tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay của lính…
Cuối năm đó tôi được về thăm nhà, mẹ tôi đưa tôi xem bức điện báo, gửi từ Thái Nguyên: “Mẹ đừng khóc, con trai của mẹ vẫn còn sống”.
Theo tác giả:
“Chiến tranh nghiệt ngã vô cùng, tháng 2-1979, có không ít những kẻ hèn nhát vứt súng chạy dài nhưng cũng rất nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh oanh liệt. Nói không sợ chết là không đúng. Không ai là không sợ, không ai muốn chết. Nhất là khi nhìn trực tiếp chớp lòe đạn pháo bắn tung chiến hào, những xác người văng lên tan nát và những tiếng kêu la đau đớn… Đạn cày xối xả bên mình, dưới chân đồi bọn lính Trung Quốc đông lúc nhúc, thổi kèn, phất cờ, hò hét tả lớ, tả lớ xung phong. Nhưng tại sao người lính không buông súng bỏ chạy…”
Đọc những trang viết của những người lính mới thấy, phần lớn những người thực sự anh hùng hoặc đã chết hoặc đã trở về quê lặng lẽ với những ước mơ vô cùng giản dị.
Mặc dù, trận đánh ở cao điểm A6b ngày 31-5-1985 đã được đưa vào giảng dạy ở các trường quân sự Việt Nam, không ai nhắc, những người trụ lại cao điểm A6b, Vị Xuyên – nơi được gọi là “Lò Vôi Thế Kỷ” – chính là những người lính của Trung đoàn 567. Năm 2016, khi thành lập Ban liên lạc cựu binh Mặt trận Vị Xuyên, mấy chục vị tướng tá, say sưa nói tới trận đánh A6b nhưng không ai nói về Trung đoàn 567 [dù 567 đã từng được anh hùng].
Cả Trung đoàn 567 biết Hồ Tuấn đã chiến đấu ở Khau Chỉa như một anh hùng. Người lính thông tin Đỗ Quang Thịnh chứng kiến sự hy sinh anh dũng của đại đội trưởng Phạm Xuân Giao trên chốt A6b ngày 7-6-1985. Không ai trong họ được vinh danh. Đỗ Quang Thịnh từng nhắn cho tác giả Nguyễn Thái Long: “Cám ơn anh đã viết… còn hỏi huân huy chương thì giấy tờ mệt lắm, em không hỏi đâu. Con em nó bảo: Bố không được tặng huân chương nhưng với mẹ và con, bố là một người anh hùng”.
Nhưng, nhân vật ám ảnh nhất trong cuốn sách, với tôi, là “Bố Hoan”, người tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1, can trường bảo vệ đèo Khau Chỉa, sau chiến tranh 17-2-1979 là trung đoàn trưởng trung đoàn 567. Hình ảnh ông, một người lính già xuất ngũ, ngồi trên xe ngựa, chở 2 bao gạo từ Biên giới về quê Lý Nhân, Hà Nam, thật tiêu biểu cho hình ảnh những người dân Việt Nam. Những người, trong chiến tranh, sẵn sàng sinh tử để bảo vệ giang san; khi giặc tan, chỉ mong được trở về, mong có được một ngôi nhà cho riêng mình.
“Bố Hoan” nhập ngũ 1949, trải qua 3 cuộc chiến tranh; năm 1982 xuất ngũ, năm 1986 phải rứt ruột bỏ lại căn nhà ước mơ cả đời mới dựng được trên đất hương hỏa vào Nam “kinh tế mới” và chết khi tha hương, trong lặng lẽ.
Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa không phải là cuốn sách đầu tiên viết về Cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược, bắt đầu từ 17-2-1979. Nhưng, chưa có cuốn sách nào viết về chiến tranh này cận cảnh, khốc liệt như Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa.
Cuốn sách của bác sĩ Nguyễn Thái Long không phải là hồi ức cá nhân, nó “được viết” bởi những người lính trung đoàn 567. Những người đã chống Trung Quốc bằng máu của chính mình.
Chính sử ít khi “nhớ mặt” những người đã thực sự hy sinh, vệ quốc. Nhưng, những người lính không bao giờ quên nhau. Những gì mà những cựu binh trung đoàn 567 đã nói trong cuốn sách này, đã làm để tưởng nhớ đồng đội ở Khau Chỉa, Keng Riềng… mãi mãi sẽ được giữ trong lòng người Việt./.
Leave a Comment