Tân Phong – Việt Tân
Tỷ giá USD/VNĐ trên thị trường tự do đã vượt mốc 25.000 VND/1 USD. Như vậy mức trượt giá của VND là hơn 7% kể từ đầu năm và cũng là mức trượt giá cao nhất trong 1 thập kỷ qua. Đây được coi là kết quả “không thể tránh” theo như lời giới chức Việt Nam với lý do lạm phát toàn cầu tăng, FED tăng lãi suất cho vay khiến các quĩ đầu tư rút khỏi thị trường mới nổi và các thị trường cận biên như Việt Nam. Việc nới rộng biên độ tăng giảm tỷ giá VNĐ/USD lên tới 5% trong ngày được coi là biện pháp cần thiết để “đảm bảo cân đối vĩ mô”… theo truyền thông nhà nước CSVN cho biết. Tất nhiên, đó là một nửa sự thực.
Trên bình diện chung, không chỉ có đồng tiền Việt Nam bị mất giá so với USD trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chao đảo như hiện nay. Nhưng có vẻ như mức trượt giá khá nhanh của VNĐ khiến quốc gia cộng sản này “thăng hạng” trong bảng tổng sắp các nước có đồng tiền yếu nhất thế giới, còn nhanh hơn trong bảng tổng sắp của FIFA.
Có mấy câu hỏi cần được đặt ra ở đây:
– Ngoài những yếu tố khách quan mà giới truyền thông trong nước đã nói nhiều như một động thái trấn an tâm lý đám đông thì có những yếu tố chủ quan nào khác từ nhược điểm mang tính cố hữu, bản chất của hệ thống tài chính ngân hàng và nền kinh tế Việt Nam đã thúc đẩy quá trình phá giá đồng nội địa này hay không?
– Tỷ giá hiện thời liệu có phải là tỷ giá cuối cùng trong năm 2022? Nó sẽ tiếp tục tăng hay giảm và yếu tố nào sẽ quyết định quá trình đó?
Hiện đồng tiền Việt Nam (VNĐ) là đồng tiền yếu nhất trong khối Châu Á và yếu thứ 2 trên thế giới. Đồng tiền yếu nhất thế giới thuộc về đồng Rial của Iran (42.350 IRR/1 USD). Năm 2020, đồng tiền Việt Nam ở vị trí thứ 4 sau đồng Rial của Iran, đồng BYR của Belarus, vị trí thứ 3 thuộc về đồng tiền của một quốc đảo gần như vô danh ở Châu Phi là São Tomé & Principe.
Năm 2022, VNĐ “leo” lên vị trí thứ 2 trong bảng tổng sắp đáng buồn tủi này. Nhưng nếu so sánh với Iran – một quốc gia đang bị cấm vận bởi Tây Phương hơn 4 thập kỷ với các điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, bối cảnh kinh tế, chính trị hỗn loạn ở Trung Đông thì là một so sánh hết sức khập khiễng.
So với các đồng tiền khác trong khu vực Đông Nam Á, đồng tiền Việt Nam mất giá nhanh nhất, nhiều nhất. Kể từ 2000 đến nay, VNĐ đã mất giá 70% so với đồng USD. Việc đồng nội tệ suy yếu nhanh tuy có thể có lợi cho xuất khẩu nhưng đối với một nền kinh tế nhập khẩu hơn 80% nguyên nhiên vật liệu đầu vào và không có công nghiệp hỗ trợ như Việt Nam thì lại gặp vấn đề lớn. Nợ quốc tế và chi phí nhập khẩu sẽ tăng cao trong bối cảnh xuất khẩu bị suy giảm, góp phần làm “mỏng” nhanh quĩ dự trữ ngoại tệ.
Được biết, dự trữ ngoại tệ thấp hơn cầu ngoại tệ để thanh toán hàng hóa nhập khẩu. Ngoài ra, chính sách giữ tỷ giá cố định thời gian trước để kiềm chế lạm phát nên Ngân Hàng Trung Ương đã phải bán ra 41 tỷ USD chỉ trong 3 đợt gần đây (ngày 7/6/2022 Ngân Hàng Trung Ương bán ra 7 tỷ USD, ngày 16/8/2022 bán ra 13 tỷ USD và ngày 14/09/2022 bán ra 21 tỷ USD). Trong nửa cuối tháng Chín và tháng Mười, Ngân Hàng Trung Ương tiếp tục bán thêm một lượng USD nhưng chưa công bố nên dự trữ ngoại tệ hiện tại chỉ khoảng 80 tỷ USD tương ứng khoảng 12 tuần nhập khẩu với kim ngạch xuất khẩu năm 2022 dự đoán là 368 tỷ USD. Đây là qui mô dự trữ ngoại hối thấp nhất gần mức tối thiểu, tương đương 12-16 tuần nhập khẩu.
Trong khi đó, nguồn thu từ kiều hối và người lao động nước ngoài – vốn dĩ là một nguồn ngoại tệ quan trọng, khoảng 16-18 tỷ USD/năm, đã và đang suy giảm đáng kể. Sau 2 năm bệnh dịch, gần 200.000 lao động đã trở về nước và chưa tìm được công việc tiếp theo, lượng lao động được “xuất khẩu” mới ít hơn so với thời gian trước cũng như việc buôn lậu người bằng container bị EU và các nước Tây Phương xiết chặt nên ảnh hưởng tới nguồn thu ngoại tệ đáng kể của nhà cầm quyền và quan chức CSVN.
Năm 2015, theo tổ chức Global Financial Intergrity (Tổ chức Liêm Chính Tài Chính Toàn Cầu) công bố báo cáo “Illicit Financial Flows from developing coutries” (tạm dịch: Dòng tài chính bất hợp pháp từ các nước đang phát triển) giai đoạn 2004-2013 có nêu tên Việt Nam. Báo cáo cho hay khoảng 92,9 tỷ USD trong 10 năm là số tiền bẩn đã được tuồn ra nước ngoài.
Ngoài ra, một xu hướng khác ảnh hưởng tới nền kinh tế, đồng thời góp phần làm suy yếu đồng tiền trong nước là các doanh nghiệp sản xuất trong nước phụ thuộc vào nhập khẩu hầu hết nguyên vật liệu đầu vào nhưng không xuất khẩu được mà chỉ tiêu thụ nội địa. Lợi nhuận thực sự thì được chuyển ra nước ngoài thông qua việc nâng khống đầu vào nhập khẩu, báo lỗ hoạt động sản xuất trong nước.
Một lý do nữa liên quan đến hoạt động các công ty chứng khoán huy động vốn theo kiểu phát hành trái phiếu rác thông qua các ngân hàng thương mại tư nhân như Vạn Thịnh Phát… rồi mua ngoại tệ và thông qua việc thanh toán ngoại thương để chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.
Sẽ nguy hiểm hơn nhiều khi một tập đoàn vừa nắm ngân hàng thương mại, vừa có hàng trăm doanh nghiệp chân rết phát hành dễ dàng hàng triệu cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp dưới chuẩn để huy động vốn, vừa có hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế như Vạn Thịnh Phát, v.v… Vạn Thịnh Phát là một trong những ví dụ tiêu biểu của một “sát thủ kinh tế” ở tầm vóc còn lớn hơn Vingroup hay FLC, Tân Hoàng Minh, v.v… Do đó, việc kiểm soát đặc biệt ngân hàng SCB ngay kể cả hiệu quả hoạt động của ngân hàng này ổn và khối tài sản đảm bảo lớn có lẽ xuất phát từ nhiều lý do khác.
Tất cả các yếu tố trên đều dẫn đến việc đồng tiền VNĐ suy yếu và nền kinh tế quốc gia bị “nội thương” nghiêm trọng trái ngược với các con số thống kê tăng trưởng GDP đẹp đẽ. Nếu nhìn sâu vào chút, ta có thể thấy nền kinh tế đang vỗ ngực với thành tích “tăng trưởng nhanh nhất thế giới” này đang cực kỳ mong manh và bất ổn.
Tân Phong
Leave a Comment