Vào ngày 13/09 vừa qua, 52 người đoạt Giải Môi trường Goldman đã gửi thư tới các thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc để ủng hộ bà Nguy Thị Khanh, người đoạt Giải Môi trường Goldman 2018, đang bị thụ án 2 năm tù với cáo buộc trốn thuế.
Vụ xử bà được xem là hình phạt cho việc trở thành một nhà lãnh đạo khí hậu thẳng thắn ở Việt Nam.
Thư nêu rõ, ngoài bà Ngụy Thị Khanh, ba lãnh đạo môi trường khác cũng đang phải ngồi tù tại Việt Nam về các tội danh liên quan đến thuế, trong đó có luật sư môi trường Đặng Đình Bách, nguyên là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Bền vững về Luật và Chính sách, đang thụ án 5 năm tù.
Họ đều là những người đã làm việc rất nhiều để tạo ra một môi trường trong sạch, lành mạnh và bền vững.
Những người gửi thư đã kêu gọi các thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc bỏ phiếu bác đơn xin làm thành viên Hội đồng giai đoạn 2023-2025 của Nhà nước Việt Nam, sẽ được bầu chọn vào giữa tháng 10 sắp tới.
Khi tuyên bố ứng cử vào Hội đồng này, Chính phủ Việt Nam tự nguyện cam kết “Tăng cường Nhà nước pháp quyền, tiến hành cải cách luật pháp nhằm nâng cao nền tảng thể chế, tư pháp, và chính sách liên quan đến nhân quyền và lồng ghép thêm quy định từ điều ước quốc tế về nhân quyền vào luật pháp quốc gia”.
Nhưng trong suốt thời gian qua, nhà nước Việt Nam có thực sự thực hiện theo các khuyến nghị của Hội đồng Nhân quyền LHQ (United Nations Human Rights Council, UNHRC) tại cuộc rà soát định kỳ toàn cầu (Universal Periodic Review) năm 2019 về việc cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam?
Tiếp tục dập tắt mọi tiếng nói bất đồng chính kiến
Theo đánh giá của tôi, ngoài Myanmar, không còn có nước nào trong vùng Đông Nam Á đàn áp bất đồng chính kiến với những bản án vô cùng hà khắc như Việt Nam.
Nếu như các nhà hoạt động môi trường trở thành đối tượng của bắt bớ gần đây, thì nhiều nhà vận động khác đã bị đàn áp, bỏ tù từ lâu nay.
Xin nhắc lại, ba nhà báo của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam là Phạm Chí Dũng (15 năm tù, 3 năm quản chế), Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn mỗi người 11 năm tù, 3 năm quản chế; nhà thơ, cựu chiến binh Trần Đức Thạch bị tuyên án 12 năm tù, 3 năm quản chế; Ba mẹ con nhà hoạt động về nhân quyền và quyền đất đai Cấn Thị Thêu 8 năm tù, 3 năm quản chế, Trịnh Bá Tư 8 năm tù, 3 năm quản chế, Trịnh Bá Phương 10 năm tù, 5 năm quản chế; Nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang 9 năm tù; Kỹ sư, nhà báo độc lập Lê Anh Hùng bị bắt từ năm 2018, bị đưa vào bệnh viện tâm thần cưỡng bức điều trị suốt một thời gian dài, mới đây đã bị tuyên án 5 năm tù trong phiên tòa ngày 30/08 mà cả gia đình lẫn luật sư đều không được thông báo và không được tham dự.
Ngay cả những người từ lâu không còn hoạt động như kỹ sư Nguyễn Lân Thắng, hay như nhà giáo Đặng Đăng Phước chỉ vì ủng hộ thuyết tam quyền phân lập, nhà hoạt đông xã hội Bùi Tuấn Lâm, vì đăng một video giễu nhại hành động của đầu bếp Thổ Nhĩ Kỳ biệt danh “thánh rắc muối” phục vụ món thịt bò dát vàng đắt đỏ cho Bộ trưởng Bộ Công An Tô Lâm ở London, do đó được gọi là “thánh rắc hành”…cũng đều bị bắt gần đây.
Khi nói chuyện qua điện thoại với người viết bài này cách đây khoảng một tuần, điều khiến gia đình các tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm lo lắng là điều kiện lao tù vô cùng tồi tệ, ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe của người thân.
Vợ của nhà thơ Trần Đức Thạch cho biết mắt ông bị mờ, xin đi mổ nhưng chưa được và lo ngại tuổi ông đã cao, năm nay đã 70, không biết liệu ông có chịu nổi bản án quá dài.
Vợ nhà báo Nguyễn Tường Thụy cũng có cùng nỗi lo vì nhà báo Nguyễn Tường Thụy, cũng là một cựu sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam, 72 tuổi, có nhiều vấn đề về sức khỏe và từng bị đột quỵ, nhưng gia đình xin được chữa trị ở cơ sở khám chữa bệnh bên ngoài trại giam thì bị từ chối.
Gia đình nhà báo Lê Hữu Minh Tuấn nói Minh Tuấn bị bệnh đường ruột, bao tử, nhưng khi gia đình gửi thuốc vào thì thuốc lại bị gửi trả lại. Vợ nhà báo Phạm Chí Dũng cho hay nhà báo Phạm Chí Dũng vì đấu tranh đòi cải thiện điều kiện lao tù, đòi cho tù nhân đi khám chữa răng nên không lấy thức ăn, chỉ nhận cơm trắng từ ngày 5/6 cho đến nay.
Những người đã ra tù vẫn bị xử tệ. Như trường hợp của cựu tù nhân lương tâm Trần Thanh Phương, thuộc nhóm Hiến Pháp – nhóm này có tổng cộng 10 người bị bắt giam. Anh Trần Thanh Phương kể, sau khi đã thi hành xong bản án 3,5 năm, lẽ ra anh sẽ thực hiện hai năm quản chế tại Sài Gòn, nơi anh bị bắt và là nơi nhà cửa, tiệm may, vợ con đều ở đó. Nhưng công an đưa anh về Huế, nơi anh có hộ khẩu ghép nhà vợ, khiến anh và vợ con tiếp tục bị chia cắt, đi lại thăm gặp tốn kém, bản thân anh không có việc làm, không kiếm ra tiền phụ vợ nuôi con.
Nguy cơ rơi trở lại vào danh sách đàn áp tôn giáo
Việt Nam luôn nói là pháp luật nước này tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng đã từng hai lần, năm 2005 và năm 2006, bị liệt vào danh sách các Quốc Gia Cần Quan Tâm Đặc Biệt (Country of Particular Concern, CPC) vì vi phạm quyền tự do tôn giáo một cách nghiêm trọng. Nếu không thay đổi Việt Nam có nguy cơ lại bị đưa trở lại vào danh sách này.
Vì sao có tình trạng như vậy? Vì nhiều năm nay nhà nước Việt Nam luôn có một chính sách kiểm soát mọi tôn giáo có thể có thái độ độc lập với độc quyền tinh thần của Đảng Cộng sản, từ Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa hảo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tới một số nhóm dân tộc thiểu số.
Các vấn đề có từ trước chưa được giải quyết lại có các vấn đề mới. Từ sau biểu tình ở Tây Nguyên 2001-2004 có những đồng bào thiểu số bị truy bắt khiến nhiều người phải chạy sang Campuchia, Thái Lan xin tỵ nạn chính trị.
Có những địa phương đàn áp khắc nghiệt hơn, dẫn đến tình trạng hàng ngàn người Hmong buộc phải rời khỏi bản làng, tái định cư ở một vài khu vực của Lâm Đồng, trong tình trạng vô quốc tịch vì không được cấp giấy tờ tuỳ thân.
Rồi các vụ cưỡng chiếm đất đai của các nhà thờ, chùa, gây khó khăn cho các tăng, ni và Phật tử của tổ chức Giáo hội Phật giáo VNTN, tu sĩ và Phật tử Khmer Krom…Các vấn đề liên quan tới tự do tôn giáo hiện vẫn bị các tổ chức quốc tế lên tiếng.
Theo báo cáo của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) từ đầu năm 2020, số tù nhân tôn giáo ở Việt Nam vào khoảng 61 người, và con số này hiện đã tăng lên.
Hồ sơ về nạn buôn người
Sau ba năm liền nằm ở Hạng 2-Danh Sách Theo Dõi mà vẫn không chứng minh được thực tâm cải thiện, trong Báo cáo về Buôn người năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vừa công bố ngày 19.7 6, Việt Nam đã bị đưa xuống hạng 3, tức là hạng tệ hại nhất về buôn người.
Việt Nam dựa vào việc gọi là xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài để góp phần giải quyết việc làm và cải thiện đời sống cho nhiều người dân, tăng nguồn ngoại tệ cho Việt Nam, mà có quan chức nói là lên tới cả tỷ đô la/năm. Tuy nhiên, mặt trái của chính sách này thì cũng rất nhiều và đã được báo chí, dư luận nói đến từ lâu.
Một kịch bản lặp đi lặp lại là các nạn nhân, xuất thân từ những gia đình nghèo khó ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, để được tuyển đi lao động ở nước ngoài họ phải vay mượn, cầm cố ruộng vườn, sổ đỏ để có tiền nộp lệ phí, tiền thế chân, khi sang đến nước ngoài thì toàn bộ giấy tờ tùy thân, passport bị công ty tuyển dụng thu giữ.
Họ phải làm việc việc vất vả nhiều giờ một ngày trong những điều kiện tồi tệ, bị quỵt tiền lương, bị ngược đãi, đánh đập, với phụ nữ nhiều khi còn bị bạo hành, lạm dụng, nhưng khó tìm được nơi cứu giúp. Ai, cơ quan nào ở Việt Nam hiện dám chịu trách nhiệm cho các thảm cảnh này?
Các tổ chức hoạt động nhân quyền phi lợi nhuận như BPSOS, CAMSA (Coalition to Abolish Modern-day Slavery in Asia-Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới ở Á Châu)…đã hỗ trợ giải cứu hàng ngàn nạn nhân ở Malaysia, Jordan, Nga…và mới năm ngoái đây là các nạn nhân nữ bị đưa sang Ả Rập Saudi làm lao động giúp việc nhà.
Trong đó có những em gái không đủ tuổi nhưng các công ty môi giới cấu kết với quan chức địa phương đã làm hộ chiếu giả nâng số tuổi, như trường hợp của em H Xuân Siu, người Gia Rai, bị sửa tuổi để đưa sang Ả Rập Saudi làm việc khi chưa đến 15 tuổi và 2 năm sau khi chết vì bị chủ bạo hành thể xác, em chỉ mới 17 tuổi.
Nhưng bất chấp dư luận, bất chấp việc bị đưa vào hạng 2 cần theo dõi và bây giờ là hạng 3, Nhà nước Việt Nam cần cho biết họ đã làm gì để thay đổi tình trạng này.
Theo tôi quan sát, các thủ phạm, bao gồm cả một số quan chức và rất nhiều công ty xuất khẩu lao động vẫn không bị điều tra, khởi tố, các nạn nhân vẫn không được trả lại những đồng lương lao động bị quỵt, không được bồi thường thỏa đáng.
Việt Nam sẽ nghiêm túc thực hiện các khuyến nghị của LHQ, của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nhằm tăng cường phòng, chống buôn người và có lộ trình nào không?
Mới đây nhất, câu chuyện về những người Việt bị lừa sang Campuchia làm việc như nô lệ trong các sòng bạc do người Trung Quốc làm chủ cũng vậy.
Có những người may mắn tháo chạy trở về, hàng trăm người được cảnh sát Campuchia giải cứu và trao trả cho phía Việt Nam, nhưng vẫn còn bao nhiêu người khác…
Bộ này ngành nọ ở Việt Nam chỉ vào cuộc sau khi các vụ việc được báo chí đăng. Vậy bao nhiêu năm qua Việt Nam đã làm những gì để cải thiện môi trường sống, tạo cơ hội công ăn việc làm để người dân khỏi phải tìm đường ra đi?
Còn rất nhiều vấn đề khác nữa, nhưng chỉ cần nhìn vào ba lĩnh vực: trấn áp người bất đồng chính kiến, siết chặt kiểm soát tôn giáo và các vấn đề bị cho là “buôn người” là đủ để đặt câu hỏi Việt Nam có xứng đáng là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc hay không. Vào đó để làm gương cho nước nào?
Việt Nam từng phê chuẩn rất nhiều công ước quốc tế, chẳng hạn, Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền Trẻ em.
Việt Namcũng luôn tích cực tham gia vào các định chế quốc tế, như việc ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc này.
Nhưng ta cần hỏi thẳng, việc vào Hội đồng Nhân quyền có phải chỉ để làm đẹp cho chế độ? Tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền nếu đạt được có phải lại trở thành bình phong, giúp các quan chức tránh phải thực tâm thay đổi những vấn đề nhức nhối nói trên?
Leave a Comment