Vladislav M. Zubok/ Foreign Policy – Trung Điền lược dịch – Việt Tân
“Di sản bị tranh chấp của Gorbachev“ (Gorbachev’s Disputed Legacy) của tác giả Vladislav M. Zubok, giáo sư lịch sử quốc tế tại Trường Kinh Tế London và là tác giả cuốn sách “Sự sụp đổ của Liên Xô,” đăng trên Foreign Policy vào ngày 30 tháng Tám, 2022.
Một khoảnh khắc đầy hy vọng trong lịch sử Nga đã chết theo nhà lãnh đạo Liên Xô cũ
Mikhail Sergeyevich Gorbachev, người mà báo chí Nga đưa tin hôm nay (30/8/2022) qua đời ở tuổi 91 sau một thời gian dài ốm đau, là một điểm sáng hiếm hoi trong lịch sử bi thảm, nghiệt ngã, đẫm máu của nước Nga. Ngay cả trong những khoảnh khắc tồi tệ nhất của mình, ông ta vẫn toát lên sự ấm áp và luôn luôn lạc quan và hài hước. Là một người đam mê chính trị, ông không cố bám vào quyền lực vì quyền lực.
Những phẩm chất đó đã khiến Gorbachev quyết tâm thúc đẩy hai chính sách perestroika và glasnost – để cải cách hệ thống kinh tế từ trên xuống của Liên Xô, làm cho nền quản trị của nó minh bạch hơn và cho phép người dân có tự do và nhiều quyền hơn. Những phẩm chất đó có lẽ cũng là những phẩm chất mà ông cần để mang lại một sự kết thúc hòa bình của cuộc Chiến Tranh Lạnh — thành tựu lớn nhất của ông.
Tuy nhiên, vị trí của ông trong lịch sử Nga phức tạp hơn – và vẫn cần được xác định trong thời gian tới. Những người theo chủ nghĩa dân tộc Nga và những người kiên định với trật tự cũ thường coi ông như một kẻ lừa bịp hoặc một kẻ phản bội, một phần lớn cho là vì ông mà đã làm cho Liên Bang Xô Viết tan rã. Những người Nga khác và các thành viên của khối Liên Xô cũ ca ngợi ông như một người giải phóng có tầm nhìn xa, người đã cố gắng giải phóng họ khỏi ách thống trị của chủ nghĩa toàn trị thối nát.
Về phần mình, Gorbachev, vốn là mẫu người vui vẻ và lạc quan, khiến ông ta phải nói về mình ở ngôi thứ ba – với người viết tiểu sử William Taubman rằng “Gorbachev thật khó hiểu.”
Ông chắc chắn là sản phẩm của thời đại mình: Là một đứa trẻ của nông dân Nga-Ukraine, ông đạt được một nền giáo dục đại học của Liên Xô (do một nhóm trí thức tiền cộng sản dạy) và trưởng thành trong tâm trạng “mừng rơi nước mắt” sau chiến thắng của Nga chống lại Đức trong Thế Chiến Thứ Hai. Những người như Gorbachev, giống như hàng triệu người Nga khác, đã phải vươn lên từ đống đổ nát của chiến tranh, nạn đói và khủng bố do nhà nước gây ra nhưng họ vẫn vui mừng khôn xiết vì được sống và khao khát một tương lai tốt đẹp hơn.
Gorbachev đã gặp vợ của mình, Raisa, một sinh viên triết học, trong ký túc xá của Đại Học Tổng Hợp Moscow vào năm cuối cùng của cuộc đời cựu lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin. Cô đã trở thành người bạn tri kỷ không thể thiếu của anh trong suốt sự nghiệp chính trị của anh – người bạn tâm giao mà anh tìm đến khi bị vây quanh bởi những đối thủ, kẻ thù và đồng minh trùng lặp, anh cần những lời khuyên mà anh có thể tin tưởng.
Thời gian đầu, Gorbachev đã chuẩn bị cho ông rất ít cho nhiệm vụ to lớn là cai trị và cải tổ một đế chế khổng lồ. Là một nông dân đến từ Privolnoye (được dịch là “Người tự do”) ở Bắc Caucasus, ông gia nhập đảng Cộng Sản Liên Xô, chủ yếu tập trung vào nông nghiệp. Tình cờ, Yuri Andropov thủ lãnh KGB đã gặp ông và từ đó đâm ra thích. Khi Andropov trở thành tổng bí thư đảng Cộng Sản và lãnh đạo tối cao của Liên Xô, ông đã chọn Gorbachev sẽ là người thừa kế của mình.
Andropov, tuy nhiên, đã chết trước khi Gorbachev có thể học được những điều phức tạp của các vấn đề đối ngoại, chính sách an ninh, kinh tế và tài chính. Sự thiếu nền tảng và kinh nghiệm này đã làm chậm quá trình lên nắm quyền của ông trong một thời gian ngắn – Konstantin Chernenko lên nắm quyền tổng bí thư sau cái chết của Andropov, và cũng chết sau đó 13 tháng – một nỗi ám ảnh ghê gớm đối với Gorbachev khi ông ta lên nắm quyền.
Tháng ba, 1985, vào một đêm trước khi Bộ Chính Trị “bỏ phiếu” để đưa Gorbachev làm tổng bí thư đảng Cộng Sản – Gorbachev đã đi bách bộ với Raisa, và Raisa đã hỏi: “Anh có thực sự cần cái này không?” Gorbachev – theo tiểu sử của Taubman, đã trả lời với Raisa rằng ông ta phải chịu trách nhiệm. “Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này,” ông nói, đề cập đến sự trì trệ và mục nát đang suy yếu của hệ thống Liên Xô.
Gorbachev đã nhìn thấy một khoảng cách lớn giữa ý thức hệ cộng sản và thực tế Liên Xô, và ban đầu ông tin rằng nó có thể được cải tổ từng bước mà không cần thực hiện những bước triệt để. Sau đó, ông ta hối lỗi nhớ lại suy nghĩ của mình vào năm 1985: “Một cách tự nhiên, không thể giải phóng ý thức của một người [tất cả] cùng một lúc khỏi những tia chớp và xiềng xích trước đó.”
Trong năm đầu tiên cầm quyền, Gorbachev lao vào công việc với lý tưởng và nhiệt huyết. Ba năm sau, ông đưa ra những cải cách triệt để về kinh tế, chính trị và hiến pháp. Và trong hai năm cuối cùng của nhiệm kỳ, ông thường phân vân giữa việc ủng hộ sự thay đổi triệt để và chống lại nó, hoặc đơn giản là thả nổi vì sự thiếu quyết đoán. Sau đó Gorbachev lập luận rằng ông ta làm điều này là để tránh những gì có thể trở thành một cuộc nội chiến.
Một số nhà sử học đặt câu hỏi làm thế nào mà một người đàn ông đã đạt được thành công như vậy trong guồng máy chính trị khủng khiếp của đảng mà lại có thể giữ được nhiều sự hiểu biết như vậy. Thời trẻ, Gorbachev thích đọc thơ và có khát vọng nghệ thuật. Ông ấy đã học một câu nói tiếng Latinh: “Dum spiro, Spero,” có nghĩa là “Tôi hy vọng chừng nào tôi còn thở.”
Giống như nhiều người Nga khác, Gorbachev sử dụng khá nhiều từ thô lỗ một cách phổ biến, nhưng ông không bao giờ uống rượu quá độ và là một người đàn ông dịu dàng, yêu thương gia đình. Vào mỗi kỳ nghỉ, ông mang theo một gói sách văn học, triết học và lịch sử. Gorbachev có khiếu hài hước và thích cười. Phụ tá trung thành Anatoly Chernyaev nhớ lại lần Gorbachev đọc cuốn tiểu thuyết có tính phê bình cao về cựu lãnh tụ Vladimir Lenin của Aleksandr Solzhenitsyn. Gorbachev mô tả cuốn sách là “rất mạnh mẽ” và trước sự ngạc nhiên của người phụ tá, ông ta bắt đầu mạo danh vị chỉ huy Liên Xô cũ với sự hào hoa và nghệ thuật. Ông ấy là “một chống lại tất cả,” Gorbachev nói một cách ngưỡng mộ về Lenin.
Ban đầu, Lenin là hình mẫu của Gorbachev. Ông hoàn toàn lý tưởng hóa di sản cách mạng của Lenin, tin rằng triết học của ông thực sự dân chủ hơn là chuyên chế. Stalin đã trở thành hình mẫu chống đối của Lenin. Gorbachev đưa ra chủ nghĩa tự do và tự do đi lại và lương tâm, và ông từ bỏ khủng bố và bạo lực; ông muốn phá bỏ di sản đen tối của nhà độc tài vĩ đại.
Qua Perestroika, Gorbachev quyết định phá bỏ chế độ độc đảng ở Liên Xô và về bản chất, trở thành một nhà dân chủ xã hội kiểu châu Âu. Tuy nhiên, ông không bao giờ có thể tìm ra cách điều hành đất nước phức tạp của mình mà không khai thác nguồn gốc độc tài của nó – và không có Đảng Cộng Sản.
Ông thích đi du lịch phương Tây và khuyến khích những người khác làm như vậy, và ông thích nói chuyện với các nhà lãnh đạo phương Tây và suy ngẫm về những cải cách của ông trước sự chứng kiến của họ, như thể xin họ cho lời khuyên.
Khi còn đương nhiệm, những cụm từ yêu thích của ông là “hãy để [quá trình] phát triển,” “điều này không thể đoán trước được” và “chúng ta cần có sự đồng thuận.” “Đồng thuận” và “đa nguyên” là hai trong số nhiều từ phương Tây mà Gorbachev đưa ra trong bài diễn văn của Bộ Chính Trị; những từ đó thậm chí đã trở thành một phần của từ vựng tiếng Nga thông thường.
Phương pháp ưa thích của ông để tạo ra “sự đồng thuận” liên quan đến các bài phát biểu dài và những tập sách mỏng mang tính lý luận, cả hai đều được ông ưa thích hơn là các nghị định. Nhiều người nhận thấy Gorbachev dài dòng; một số ít lưu ý rằng những cuộc độc thoại bất tận của ông ta là cách suy nghĩ thấu đáo các vấn đề, cân nhắc vấn đề từ mọi phía.
Thật không may, nhiều vấn đề của Liên Xô chỉ có những giải pháp nhức nhối, và Gorbachev ngày càng sử dụng cách nói chuyện và lý luận để trì hoãn hành động. Không chỉ những người chỉ trích ông trong nước mà ngay cả các đối tác phương Tây cũng thấy phong cách quản trị của ông rất khác thường. Về kinh tế, ông trao nhiều quyền tự chủ hơn và một phần lợi nhuận cho “tập thể” các doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên ông không cho phép cải cách sở hữu tư nhân và thị trường, vì lo sợ thất nghiệp và bất bình đẳng. Trong chính trị, ông đã tạo ra các thể chế đại diện khó sử dụng nhưng không xây dựng được một cơ quan hành pháp mạnh có thể thay thế quyền lực của đảng Cộng Sản. Một số người đổ lỗi cho ông vì đã mở cửa đất nước cho những ảnh hưởng của phương Tây quá xa, quá nhanh – tạo điều kiện cho sự hỗn loạn trong một đất nước có truyền thống độc tài lâu đời.
Khi cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội của Liên Xô ngày càng gia tăng, nhiều người muốn ông sử dụng quân đội và an ninh để bảo vệ đế chế, nhưng ông đã từ chối. Gorbachev chưa bao giờ phục vụ trong quân đội, một điều kỳ lạ đối với xuất thân và thế hệ của ông. Và Gorbachev không bao giờ quan tâm đến các vấn đề quân sự. Ông đã yêu cầu các sĩ quan quân đội hàng đầu của mình phát triển học thuyết “đủ chiến lược” để tránh tích lũy vũ khí không giới hạn.
Gorbachev ghê tởm việc đưa ngón tay để kích hoạt vũ khí hạt nhân và trở thành nhà lãnh đạo Liên Xô đầu tiên phá hủy tên lửa hạt nhân. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, ông thực sự lo sợ rằng Hoa Kỳ có thể giải giới Liên Xô bằng một cuộc tấn công từ không gian. Tổng thống Hoa Kỳ thời đó – Ronald Reagan, đối tác trong việc đưa Chiến Tranh Lạnh kết thúc, đã cảm kích trước sự chân thành của ông và sau đó trở thành bạn của ông. George H.W. Bush, người kế nhiệm Reagan, lúc đầu không tin tưởng nhà lãnh đạo Liên Xô nhưng sau đó đã thương lượng với Gorbachev về việc rút quân của Liên Xô khỏi Trung Âu.
Gorbachev đã thông qua ý tưởng về “Châu Âu toàn diện và tự do” và thậm chí còn đề xuất xây dựng “một ngôi nhà chung Châu Âu” bao gồm Liên Xô. Khi Bức tường Berlin sụp đổ và Khối Xô Viết tan nhanh như tuyết vào mùa hè, Gorbachev đã chấp nhận đây như một phán quyết của lịch sử; ông đã giữ quân đội Liên Xô trong doanh trại của họ và sau đó đồng ý rút họ trở lại Liên Xô. Đây là thời điểm khi ông định hướng một lộ trình mới triệt để cho Liên Xô và thế giới – và cũng là thời điểm lịch sử bỏ lại ông và những bài hùng biện của ông. Hồi chuông báo tử cho Liên Xô đã vang lên.
Khi Đức nhanh chóng tiến tới thống nhất trong NATO, Gorbachev thực sự bị ràng buộc. Ông không muốn khuấy động chủ nghĩa sô vanh của Nga ở quê nhà, nhưng các lá bài đàm phán của ông ta rất yếu. Tại thời điểm này, ngoại trưởng Hoa Kỳ khi đó – James Baker – cam kết bằng miệng với ông rằng NATO sẽ không tiến ”một inch nào về phía đông.” Gorbachev không nhấn mạnh vào bất kỳ xác nhận nào, và cam kết này gây ra tranh cãi lớn giữa Nga và NATO nhiều năm sau đó. Mùa thu năm 1990, Gorbachev nhận giải Nobel Hòa Bình vì đã chấm dứt xung đột Đông – Tây.
Ngay cả khi Gorbachev đã tự do hóa sâu sắc hệ thống kinh tế và chính trị của Liên Xô, ông cũng chia sẻ với hàng triệu người Liên Xô về nỗi sợ hãi đối với thị trường tư bản và những gì nó có thể mang lại cho những người có thu nhập thấp hơn, những người chưa từng biết đến thất nghiệp hoặc doanh nghiệp tư nhân. Cuối cùng, những cải cách của ông đã giúp làm mất ổn định hệ thống cũ mà không tạo ra một nền kinh tế thị trường khả thi. Mức sống của Liên Xô, đủ khốn khổ, thậm chí còn chìm xuống thấp hơn.
Gorbachev phủ nhận, cho đây là một khó khăn tạm thời, thậm chí mượn câu nói đùa của Reagan rằng “các nhà kinh tế học nên có một cánh tay” để họ ngừng nói, “Mặt khác, mặt khác.” Tuy nhiên, cuối cùng, quyền lực của ông đã trở thành nạn nhân của một nền kinh tế tồi tệ. Ông ta đã mất đi sự nổi tiếng trước Boris Yeltsin, một maverick của Bộ Chính Trị, người đã phát động một chiến dịch nhằm khẳng định chủ quyền hoàn toàn của Nga trong một Liên Bang Xô Viết phi tập trung như một cách thoát khỏi “sự thất bại của perestroika.”
Trong kỳ nghỉ cuối cùng mang tính định mệnh đến Crimea vào tháng Tám, 1991, khi các bộ trưởng của chính ông tuyên bố ông “bị bệnh” và quản thúc tại gia, Gorbachev đã đọc một câu chuyện lịch sử về số phận của Pyotr Stolypin, một thủ tướng đã chiến thắng cuộc cách mạng Nga năm 1905 nhưng trở thành nạn nhân của một sát thủ. Ông cũng đọc tiểu sử của người Mỹ về Stalin. Điều này phản ánh sự quan tâm lớn của ông đối với những người cố gắng cai trị đất nước bằng bàn tay sắt – một người cố gắng chế ngự một cuộc cách mạng và một người khác xây dựng một đế chế.
Ba ngày bị giam giữ gây rất nhiều khó khăn đối cho ông và bà Raisa đã đổ bệnh. Tuy nhiên, những kẻ chủ mưu làm cuộc nổi loạn đã không được lòng dân ở Moscow nên âm mưu đảo chính đã thất bại. Tuy nhiên, khi trở lại Moscow, Gorbachev phát hiện ra rằng quyền lực thực sự đã được chuyển cho Yeltsin, đối thủ của mình. Trong những ngày còn lại của Gorbachev tại vị, ông ta nhắm đến việc đàm phán với Yeltsin về một thỏa hiệp cho phép họ cùng điều hành đất nước. Tuy nhiên, cuối cùng, Yeltsin đã loại bỏ ông một cách ngẫu hứng.
Sự ác cảm sâu sắc của Gorbachev đối với việc sử dụng quyền lực đã khiến ông ta giao quyền lực cho những người khác, bao gồm cả các nhà lãnh đạo của 15 nước cộng hòa thuộc Liên Xô. Cuối cùng, ông thấy mình là một nhà cai trị không có nhà nước Xô Viết, nhưng ông vẫn giữ phẩm giá của mình cho đến ngày 25 tháng Mười Hai, 1991, khi ông từ chức và Yeltsin chính thức thừa kế kho vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Nhiều người đồng hương của Gorbachev đánh giá cao những quyền tự do mới mà ông đã cấp, nhưng nhiều người khác lại đổ lỗi cho ông về sự hỗn loạn kinh tế và sự sụp đổ của đế chế Liên Xô.
Gorbachev thích nói đùa rằng “hàng của những người muốn giết Gorbachev còn dài hơn hàng mua vodka.” Tuy nhiên, cho đến khi từ chức vào năm 1991, ông vẫn kiên định tin rằng mình sẽ có thể cải tổ Liên Xô bằng cách hướng dẫn nó vượt qua vực thẳm của sự thay đổi và bất ổn mà nó không bị phá vỡ.
Gorbachev là cựu lãnh đạo Nga đầu tiên trong một thế kỷ sống một cuộc sống đàng hoàng sau khi rời nhiệm sở. Ông kiếm được thu nhập từ các bài giảng và được trả tiền để xuất hiện trong các quảng cáo, số tiền mà từ đó ông ta dùng để hỗ trợ quỹ của mình, nơi các trợ lý thân cận, nhà sử học và nhà khoa học chính trị thu thập bằng chứng về những cải cách của ông ta và thảo luận về các bài học của họ. Ông đã cố gắng trở lại chính trường Nga vài năm sau khi từ chức nhưng chỉ giành được một nửa số phiếu bầu trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1996.
Cái chết của bà Raisa, vợ ông vào năm 1999 để lại cho ông một sự cô độc. Những năm sau đó, ông bắt đầu chỉ trích các chính sách của phương Tây đối với Nga và sự mở rộng của NATO, nhưng ông vẫn mãi mãi trung thành với các nguyên tắc dân chủ, nhân quyền và không sử dụng vũ lực./.