Hoàng Trường – VOA
Dù có truyền thống “ai cũng làm bạn” bao nhiêu đi nữa, sẽ đến lúc Việt Nam không thể chấp nhận việc mình chẳng giống ai trong thế giới ngày nay…
Ngày 9 và 10 tới đây, đáng ra Ngoại trưởng Blinken đến Hà Nội, theo các nguồn tin ẩn danh của cả Mỹ lẫn Việt Nam từ cuối tuần trước. Giờ đây, chuyến thăm đã bị “đình hoãn” (postpone) hay “hủy hẳn” (cancel), giới phân tích cũng chưa thể biết một cách chắc chắn. Có phải vì “tuần lễ ngoại giao con thoi” quá nhiều các sự kiện đến mức Ngoại trưởng Antony Blinken buộc phải hoãn chuyến thăm vốn đã được lên kế hoạch từ trước, hay vì những nguyên nhân khác?
Hoàng Trường
Các sự kiện trong “tuần lễ ngoại giao mắc cửi” đã diễn ra với nhịp độ chóng mặt đối với giới quan sát. Ngoại trưởng Nga, Trung Quốc và nhiều quan chức ngoại giao các nước khác đi lại nhộn nhịp giữa các thủ đô ASEAN. Đáng chú ý là lịch trình châu Á của Ngoại trưởng Blinken. Hai chặng dừng chân quan trọng nhất của ông là ở Bali (Indonesia) và Bangkok (Thái Lan) từ mồng 6 đến 11/7. Tại Bali ông tham gia cuộc họp các Ngoại trưởng G-20. Còn ở Bangkok, Blinken sẽ thảo luận với các nhà lãnh đạo Thái Lan về các vấn đề của năm APEC 2022, do Thái Lan làm Chủ tịch. Chặng ghé Hà Nội được lên kế hoạch từ trước bị hủy đặt ra khá nhiều suy đoán theo các chiều hướng lẫn lộn. Những người lạc quan đối với tương lai quan hệ Mỹ – Việt thì cho rằng, sẽ chẳng có xáo trộn gì lớn trong bang giao hai nước. Ông Blinken không ghé qua Hà Nội lần này chẳng qua là do lịch trình. Từ này đến trước tháng 11, thế nào Blinken cũng còn có dịp quay lại châu Á (nhân dịp họp Cấp cao Đông Á chẳng hạn) và ông sẽ gặp các nhà lãnh đạo Việt Nam để chuẩn bị cho chuyến thăm cấp Nguyên thủ của Tổng thống Biden vào dịp cuối năm.
Những người thận trọng hơn đối với mối bang giao đầy duyên nợ Việt – Mỹ không nhìn nhận vấn đề đơn giản như thế. Ít nhất là vì các lý do có thể kiểm chứng. Thứ nhất, chuyến đi Việt Nam của Ngoại trưởng Blinken đã được hai Bộ Ngoại giao Việt Nam và Hoa Kỳ bắt tay chuẩn bị ngay sau khi nhân vật số hai ở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ – bà Thứ trưởng Wendy Sherman – kết thúc các buổi làm việc với các đối tác. Sau hơn 3 ngày ở Việt Nam, các bên dường như đi đến được thỏa thuận quan trọng, bà Thứ trưởng đồng ý phối hợp thúc đẩy chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Biden trong năm 2022, còn Hà Nội cam kết sẽ nâng tầm quan hệ lên mức cao hơn. Tuy ý tứ được đánh tráo lắt léo để truyền thông Việt Nam dịp ấy “show-up” một ngoại lệ. Các trang mạng chính thức trong nước đều nhấn mạnh đến chủ đề “thúc đẩy chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Joe Biden trong năm 2022”. Nói ngoại lệ là vì, nếu không có phép từ cấp cao thì “nền báo chí tự do” của Hà Nội không đời nào dám “cầm đèn chạy trước ô tô” như thế. Để có thể thúc đẩy một nghị trình “Ngoại giao Nguyên thủ”, Ngoại trưởng hai nước phải đứng ra dàn xếp nội dung là chuyện hiển nhiên. Trong trường hợp Mỹ – Việt có khi phải cần đến vài đoàn “tiền trạm” (Third Party) là ít.
Thứ hai, thời điểm truyền thông Việt Nam “chơi kiểu cha nội” như trên, dư luận ngầm hiểu, sau hậu trưởng đã có sự mặc cả. Tổng thống Mỹ không thể thăm Việt Nam mà ra về tay không, nếu như Hà Nội không cam kết một vài nội dung thực chất: Việt Nam “can dự” đến mức nào đối với các “trụ cột chính sách” của ông Biden, đặc biệt là sự liên đới của Việt Nam đối với “Khung khổ Kinh tế của Indo-Pacific” (IPEF) và với các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu (COP-26). Mỹ đủ kiên nhẫn chiến lược để chưa nói tới “Bộ Tứ”, hay “Bộ Ngũ” của “Không gian Ấn Độ – Thái Bình dương Tự do và Rộng mở” (FOIP). Nhưng nếu Việt Nam cam kết sẽ là một trong 14 thành viên của IPEF, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu nhiều lần phía Mỹ nêu ra, nâng quan hệ hai nước lên tầm “đối tác chiến lược” (SP) thì mọi chuyện sẽ là “happy-ending”. Một cách ngắn gọn, “Kinh tế – Môi trường – Chiến lược” là ba trong nhiều thỏa thuận then chốt khác (như thay thế vũ khí, giúp xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển bền vững…) để quan hệ Mỹ – Việt có thể mở ra một chương mới về chất.
Thứ ba, thỏa thuận ngầm nói trên mới ở dạng sơ bộ, bỗng dưng bị “xóa sổ”. Vấn đề ở đây là thỏa thuận nào bị hủy: kinh tế, môi trường hay chiến lược? Kinh tế thì chắc là không rồi! Thủ tướng Phạm Minh Chính đã “bôn ba” trên đất Mỹ 7 ngày (từ 11 – 17/5/2022) để vận động nhiều tập đoàn Mỹ vào Việt Nam và đã thu được một số kết quả thực chất, tạo động lực cho quan hệ hai nước tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, theo như đánh giá của bà Sherman. Hay tại vì Việt Nam đàn áp những người đấu tranh vì môi trường? Việc Việt Nam mới đây bắt bỏ tù nhà hoạt động môi trường nổi tiếng Ngụy Thị Khanh gây làn sóng phản đối khắp nơi. Anh cùng Mỹ và nhiều tổ chức quốc tế đã lên tiếng kêu gọi Việt Nam trả tự do cho bà. Michael Sutton, Giám đốc điều hành Quỹ Môi trường Goldman phát biểu: “Đã đến lúc Hoa Kỳ nên thực sự ‘vứt găng tay xuống sàn’ và tuyên bố rõ với Việt Nam rằng, những việc làm như thế từ nay chúng ta sẽ không thể dung thứ”. Nhưng có lẽ quan trọng nhất là việc nâng cấp quan hệ lên SP bị chối bỏ. Mặc dù, khi hai Bộ Ngoại giao bắt tay chuẩn bị cho chuyến thăm cấp cao, dường như Việt Nam đã chấp thuận vấn đề này sau nhiều năm đình hoãn. Tuy nhiên, đến phút chót, trước ngày Blinken từ Jakarrta lên đường sang Hà Nội, “bàn tay vô hình” nào đó đã “postpone” các thỏa thuận khó khăn lắm mới đạt được trong bang giao Việt – Mỹ.
Thứ tư, một nguyên nhân khác, cũng có thể góp phần quan trọng vào việc hủy bỏ chuyến thăm: Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nắm khá rõ nghị trình làm việc của Ngoại trưởng Nga ở Hà Nội từ ngày 5 – 6/7 trong bối cảnh Moscow bị nhiều nước phương Tây cô lập, trừng phạt do gây ra chiến tranh xâm lược Ukraine. Ngoại trưởng Lavrov “khoe” trong cuộc họp báo hôm 6/7 tại Hà Nội, hai bên đã bàn thảo về “các vấn đề do Mỹ và đồng minh phương Tây của Mỹ gây ra cho nền kinh tế toàn cầu”. Ông Lavrov nhấn mạnh: “Chúng tôi đàm thoại chi tiết về các vấn đề quốc tế, sự hợp tác của chúng tôi trong khuôn khổ Liên hiệp quốc, về các diễn biến ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương… Chúng tôi cũng đối thoại về các vấn đề kinh tế toàn cầu gây ra bởi các nước phương Tây mà đứng đầu là Hoa Kỳ”. Ông Lavrov còn lên tiếng bày tỏ sự biết ơn của Nga về những lần Việt Nam bỏ phiếu trắng và phiếu chống tại Liên hiệp quốc liên quan cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine. Ngang nhiên hơn, Lavrov công khai việc Nga và Việt Nam có chung nhận thức về cách thức tiếp tục các quan hệ thương mại, kinh tế và đầu tư trong môi trường hiện nay để các quan hệ này “không bị tổn hại từ các lệnh trừng phạt đơn phương và phi pháp do Mỹ, Liên hiệp châu Âu và các đồng minh của họ ở khu vực công bố”. Về phần mình, TBT Nguyễn Phú Trọng lắng nghe quan điểm của Ngoại trưởng Lavrov về Ukraine. Chữ “lắng nghe” truyền thông trong nước dùng thật “điệu nghệ”! Tuy nhiên, trái với hình ảnh tay bắt mặt mừng mà lãnh đạo và các quan chức Việt Nam dành cho ông Lavrov, Ngoại trưởng Mỹ Blinken dự kiến sẽ không khoan nhượng với Lavrov ở Bali, khi Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố rằng “không thể có chuyện vẫn cứ giao dịch, làm việc bình thường với Liên bang Nga được”.
Thứ năm, Ngoại trưởng Blinken có thể đã “xem giỏ bỏ thóc” khi nhìn lại mối bang giao Trung – Việt gần đây. Tại cuộc tiếp xúc giữa hai Ngoại trưởng Trung Quốc và Việt Nam hôm 4/7 tại Bagan (Myanmar) trong khuôn khổ Hội nghị Mekong – Lan Thương (MLC), ông Vương Nghị khẳng định, Trung Quốc mong muốn thông qua đối thoại và hiệp thương để giải quyết bất đồng trên Biển Đông (Ý là loại các cường bên ngoài khu vực). Ngoại trưởng Bùi Thanh Sơn và Bộ trưởng Quốc phòng Phan Văn Giang (ở Myanmar và trước đó tại “Đối thoại Shangri-La”) đã phản ứng quá yếu ớt thậm chí là mâu thuẫn trước các đòi hỏi và khiêu khích của Bắc Kinh. Trong khi đó, trước mắt, chính quyền Biden muốn hợp tác với Việt Nam để chống đánh bắt cá trái phép, trong bối cảnh đội tàu cá hùng hậu “không nể mặt ai” của Trung Quốc đang vơ vét sạch cá ở Biển Đông cũng như tận diệt tài nguyên biển khắp thế giới. Lập trường của Mỹ về Biển Đông ngày càng trở nên cứng rắn và điều này có lợi cho Việt Nam. Trước đây mấy năm, Hoa Kỳ và Việt Nam cùng tham gia RIMPAC, coi đấy là bước phát triển mới trong quan hệ quân sự giữa hai nước. Năm 2012 Mỹ đã mời Việt Nam làm quan sát viên và Hà Nội đã cử 6 sĩ quan đến quan sát diễn tập quân y. Năm 2016, 2018, Việt Nam đều cử quan sát viên. Nhưng năm nay, Việt Nam lại từ chối không tham dự.
Sau cùng, tuy liệt kê vào cuối bài nhưng lại quan trọng hàng đầu (last but not least), đó là mối quan hệ Việt – Mỹ – Trung trong trận giáp la cà khốc liệt giữa các phe phái đang tỷ thí ở trong nước. Mặc dù Trung Quốc có ảnh hưởng tương đối nhiều hơn ở Việt Nam, nhưng nhìn chung, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam không phải là tích cực. Dựa trên dữ liệu gần đây của “Asian Barometer Survey” (ABS), chỉ 25% người Việt Nam được hỏi tin rằng Trung Quốc đã tạo ra tác động tích cực đến đất nước của mình, nhưng đối với Hoa Kỳ, con số này lên tới 85%. Nói cách khác, tuyệt đại đa số người được hỏi ủng hộ Hoa Kỳ và hoan nghênh Washington đến và mở rộng ảnh hưởng tại Việt Nam. Nhưng thành công của Trung Quốc là đã tạo ra được một lobby khá mạnh trong nội bộ lãnh đạo ở hàng ngũ trung – cao cấp, những người “chống Mỹ, bám Tàu” không phải xuất phát từ ý thức hệ mà là từ kim tiền, chính xác hơn là để giành giật các vị trí quyền lực đẻ ra tiền (Số này biết rõ hơn ai hết, cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đâu còn tý gì là cộng sản nữa đâu). Sự trồi sụt trong quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ do chính các đám này, có khi ở ngay trên thượng tầng “Tứ Trụ” thao túng một cách tinh vi. Nay mai, khi cái ghế Tổng Bí thư “clear”, mọi chuyện có khi sẽ trở nên “smooth” và rõ ràng hơn.
*
Tóm lại, sáu nguyên nhân liệt kê ở trên có thể chưa phải là tất cả những gì đang tạo nên những cơn sóng “ly gián” hai con tàu Việt – Mỹ đang xích gần nhau hơn. Tuy nhiên, nếu nhìn vào việc Mỹ bắt đầu trừng phạt các công ty Trung Quốc và Việt Nam do làm ăn với Nga thì việc hủy chuyến thăm Hà Nội của ông Blinken và không khí “tay bắt mặt mừng” của ông Trọng dành cho Lavrov là những tín hiệu đáng lo ngại. Với đà này, “ngoại giao cây tre” của Việt Nam dễ bị “bão táp” của thời tiết “hậu Ukraine” đánh cho tơi tả. Thật ra, Việt Nam cũng như một vài thành viên ASEAN khác như Indonesia hay Singapore đều có các nguồn tài nguyên địa-chính trị rất dồi dào mà nước lớn nào – Mỹ, Trung hay Nga – cũng đều cần đến trong việc triển khai chính sách của họ. Nhưng phải thừa nhận, Singapore và Indonesia tận dụng tài nguyên địa-chính trị ấy tốt hơn Việt Nam nhiều lần. Họ không bị nước lớn bắt nạt hay coi thường (như trường hợp Trung Quốc đối với Việt Nam). Dù có truyền thống “ai cũng làm bạn” bao nhiêu đi nữa, sẽ đến lúc Việt Nam không thể chấp nhận việc mình chẳng giống ai trong thế giới ngày nay… Nếu ông Blinken không trở lại Hà Nội như dự đoán của những người lạc quan, liệu sẽ có chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng thống Biden cuối năm? Và nếu tới đây, quan hệ Việt – Mỹ vẫn giậm chân tại chỗ, liệu Trung Quốc có tính toán lại việc lựa chọn mục tiêu Đài Loan hay Việt Nam để khởi binh trước?