Người ta thường nói tới “Sự thông minh của trái tim”, chính vì cái tâm đó làm nền mà Việt Nam đã đánh thắng những đế quốc mạnh nhất, vì đã tìm ra những phương án thông minh để chiến thắng, mà chính tiến sĩ Henry Kissinger (đã từng làm việc cho ba đời Tổng thống Mỹ) phải thú nhận. Trong nhiều lĩnh vực chúng ta đã làm được như vậy, nhưng phải thành thực nói rằng, gần đây, chữ tâm đó đang nhạt dần và bị bỏ quên.
Hầu hết khi phân tích chiến lược, người ta sử dụng phương pháp phân tích SWOT (Strength-Weakness-Opportunity-Threats: Mạnh, yếu, cơ hội và thách thức). Nhìn rộng ra của một đất nước thì vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, con người, hệ thống thể chế thuộc về nội lực, còn thời cơ và thách thức chính là ngoại lực. Nội lực đúng là toàn bộ nguồn lực bên trong, sẽ được bổ sung tự nhiên hay tổn thất đúng quy luật tùy thuộc vào hiệu quả vận hành tương tác với nguồn lực bên ngoài. Vũ khí quan trọng nhất chính là nội lực trong suốt thời gian dài vì nguyên nhân chủ quan và khách quan đã bị bỏ quên.
Ngày trước sách Tam Quốc nói Tôn Quyền có địa lợi, Tào Tháo có thiên thời, Lưu Bị chỉ có nhân hòa mà cũng ngang ngửa và có thiên hạ chia ba!
Những yếu tố làm nên nội lực, ngoài các thành tố cơ bản là trục, là cốt lõi của vấn đề thiên địa, nhân, còn có một số những tác nhân chi tiết cấu thành tuy nhỏ và chỉ là những kết cấu phụ trợ, nhưng những giá trị quyết định thì lại hoàn toàn không nhỏ nhoi chút nào!
Nội lực thì gồm nhiều thứ nhưng có lẽ cơ bản nhất vẫn là con người và thể chế gắn những con người đó với nhau. Tài nguyên tất nhiên là một phần của nội lực nhưng không phải là cái quan trọng nhất. Ở các nước OECD thì 80% tài nguyên của họ là con người. Thiên thời là một cái gì đó khách quan gồm cơ hội hoặc thách thức.
Hiện nay thiên thời, chỉ còn rất ít người mơ hồ về cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội mà là bộ mặt và tham vọng thật của Trung Quốc không còn che giấu được nữa; là sự lên ngôi của lợi ích dân tộc (không phải là lợi ích giai cấp nữa, mà nó đang biến tướng thành lợi ích nhóm).
Có ý kiến cho rằng nội lực của Việt Nam, phần cứng là tài nguyên thiên nhiên, phần mềm là con người hay nói cách khác nội lực Việt Nam chính là thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Theo thiển nghĩ của người viết bài này, phần mềm có lẽ là tư tưởng chi phối xã hội và hệ thống thể chế gắn kết xã hội, văn hóa… như một hệ điều hành (ví dụ như thể chế kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự hoặc tam quyền phân lập). Lâu nay, ta dùng các hệ điều hành cũ kỹ, lạc hậu (làm chủ tập thể, kinh tế quốc doanh là chủ đạo, đất đai là sở hữu toàn dân, tư duy nhiệm kỳ, chuyên chính vô sản…), và càng sửa càng hỏng để vận hành đất nước nên mới ra nông nỗi này. Chỉ có nhóm người đặc quyền, đặc lợi nhờ hệ điều hành ấy mới muốn níu giữ nó vì rời nó ra là họ khó sống. Do vậy tham nhũng, đạo đức giả và thủ cựu mới liên minh lại với nhau tạo ra thế lực gọi là “tư bản đỏ” rất mạnh.
Đừng quên rằng, chính Tổng Bí thư Trường Chinh, kiến trúc sư của Đổi mới khi phát biểu tại Đảng bộ Hà Nội 19/10/1986 đã chỉ rõ “Lãnh đạo đã phạm những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn. Nguyên nhân là do tả khuynh, ấu trĩ, duy ý chí, trái quy luật khách quan… đã mắc sai lầm lại bảo thủ, trì trệ, không dũng cảm sửa chữa…” (Văn kiện Đảng toàn tập; tập 47, trang 270).
Để đấu tranh chống bá quyền, bành trướng, cũng là chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới, Việt Nam phải phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Có ý kiến khác nhau, có mâu thuẫn nội bộ là một tất yếu khách quan, có tính quy luật nhưng nếu để kéo dài thực trạng đó một cách không bình thường thì dẫn đến phá vỡ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Khi nội bộ vững vàng, đoàn kết thành một khối thì các thế lực thù địch không thể khuất phục được ta để thực hiện chính sách bá quyền, bành trướng.
Thiên thời còn là cơ hội để nước ta vào TPP (Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương), sự quan tâm của Mỹ đến Biển Đông (tất nhiên trước hết là vì lợi ích của Mỹ và đồng minh) vì nước Mỹ có quá nhiều thứ phải quan tâm, là quan hệ ngày càng tốt đẹp với Nhật Bản và ASEAN cũng đang có thái độ dứt khoát hơn.
Việt Nam không thể dựa vào tài nguyên thiên nhiên để phát triển được vì tài nguyên khoáng sản của nước ta rất nhỏ bé, manh mún, không có khoáng sản nào có lợi thế để cạnh tranh có hiệu quả (nhập khẩu còn rẻ hơn khai thác), trừ than, dầu, khí, nước ngọt, cát, đá, sỏi và đất. Than, dầu khí thì sắp hết (30 năm nữa là đóng cửa bể than Quảng Ninh). Nước ngọt 70% phụ thuộc nguồn nước đầu nguồn xuất phát từ cao nguyên ở Vân Nam của Trung Quốc (hệ thống sông Hồng và sông Cửu Long). Đất, chủ yếu là nông nghiệp, phụ thuộc thiên nhiên, nguồn tưới phụ thuộc nước ngọt của các hệ thống sông cũng không phải nhiều. Ngay cả đá vôi làm xi măng, trữ lượng khai thác được và có hiệu quả (gần các nhà máy xi măng, dễ khai thác, dễ vận chuyển chẳng hạn) cũng chỉ có khoảng 2 tỷ tấn. Còn lại chỉ làm đá rải đường. Tài nguyên sinh học (flora & fauna) cũng nhỏ bé, lại đang ngày càng “teo” đi nhanh chóng.
Thế giới, nhiều nước phát triển mà không có tài nguyên khoáng sản như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Công, v.v. Hà Lan đã không duy trì được vị trí đứng đầu thế giới về phát triển công nghệ điện tử chỉ vì ỷ lại quá nhiều vào dầu ở biển Bắc (bây giờ thua xa Nhật Bản và Hàn Quốc). Cái gọi là “Căn bệnh Hà Lan” ngày xưa cũng chính là “Lời nguyền của tài nguyên khoáng sản” ngày nay.
Cái chủ yếu để phát triển đất nước chính là nhân. Phải có nhân hòa thì mới có nội lực, nhưng làm thế nào để có nhân hòa? Cái này, tiền nhân ta đã có tấm gương của vua Trần Nhân Tông về tập hợp lòng dân trong chống giặc, và hòa giải, đoàn kết dân tộc sau thắng giặc để làm nên một Đại Việt hùng cường.
Nước Nhật, người Nhật họ chẳng hề được ưu đãi chút nào từ cái thiên và địa, họ chẳng hề mảy may ca thán về những rủi ro, bất hạnh. Nước Nhật không có rừng vàng, biển bạc, chỉ có sức mạnh từ lòng yêu nước và tự trọng của con người là đáng kể. Đầu hàng Mỹ và chịu nhận Mỹ làm đồng minh ngay sau khi thua trận đại chiến thế giới lần thứ hai là một quyết định sáng suốt của Nhật Hoàng, với sự ưng thuận của toàn bộ nội các Nhật, và việc không truy cứu trách nhiệm Nhật Hoàng trước chiến tranh cũng thông minh không kém, từ cả phía người Nhật và người Mỹ. Nội lực của người Nhật chính là tự cường. Người xưa thường bảo “thân làm tội đời, trời chẳng làm tội ai”!
Bàn về cái nhân, là thứ “nhân định” mà chúng ta hoàn toàn có thể tạo lập được. Cũng chỉ xin nêu ra những cái khiếm và những cái khuyết để có thể cùng hè nhau mà khắc phục. Để có được nội lực thì trước hết phải chuyển hướng nhận thức của từng người, thoát khỏi óc nô lệ – nô lệ vào cái dốt, cái yếu kém, cái viển vông, mơ hồ và cả nô lệ vào học vấn, vì cái gì cũng có giới hạn, chỉ có sự ngu dốt là vô giới hạn!
Sau khi giàn khoan HD 981 rút đi, tình hình tương đối yên ắng, truyền thông trở lại những công việc quen làm. Vạch đường đi tới cho 5 hay 10 năm không phải khó lắm. Khó nhất là phải đạt được bằng cách nào như Mác nói đại ý “Thời đại này khác thời đại trước không phải sản xuất ra được cái gì mà là dùng cái gì để sản xuất”. Bây giờ thì mở rộng ý tưởng ấy là hợp tác với ai để có vốn, công nghệ, nguyên liệu để sản xuất và bán cho thị trường nào. Đó là nhiệm vụ chính trị số một. Xác định ta, bạn, thù (nếu buộc phải làm, không làm thì không được) thì cũng phải trên cơ sở đó mà xác định. Còn chuyện bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là “sợi chỉ đỏ”, xuyên suốt chế độ mà quốc gia nào cũng phải làm chứ không chỉ có ta. Chúng ta đang hội nhập thế giới tư bản mà xem tư bản là kẻ thù thường xuyên thì chuyện ta xác lập quan hệ đối tác chiến lược ai tin? Ta mà còn không tin thì làm gì “cả hai ta” đều có “niềm tin chiến lược”. Đây là nhược điểm số một của ta hiện nay mà ai cũng thấy và mỗi “một ai” đấy sẽ khai thác theo ý đồ của họ để làm giàu, làm mạnh cho họ, nhất là “bạn vàng” và kế tiếp là “kẻ thù dễ thương”, còn ta thì sẽ cầm hai “ống tre” đứng như trời trồng mà cười ngất!
Đa phần giới được ăn học thì mắc bệnh “hàn lâm” thì chỉ chăm nhằm vào những cái đích rất cao siêu, rất oách như kỹ thuật na-nô, những thứ siêu việt mà giới khoa học thế giới đang ồn ào trong khi nội hàm năng lực, hoàn cảnh và phương tiện đều thiếu thốn và yếu kém khiến lâm vào cảnh bóng đè, tự mình đè mình, chẳng ai đè mình cả. Sao không moi đầu, vắt óc nhắm vào những thứ thật bình thường, bình dị như hạt lúa, củ khoai, con cá… xem có cách nào cho tốt hơn, cho bà con nông dân được nhờ những thứ bình thường mà chẳng tầm thường chút nào. Vậy nên, có người đã nói theo kiểu “cười ra nước mắt”: cái sự khoa học ở xứ ta đang trở thành khóa hóc (!) – chẳng mở được gì cả, đặc biệt là khoa học về lĩnh vực chính trị xã hội. Giống hệt như đứa trẻ thơ, ấu trĩ tự mình túm chặt tóc, giật, đau và khóc – càng đau, càng túm chặt hơn, giật mạnh hơn và… khóc thét lên!
Hiện tượng có đoàn mà không có kết ở ta đang tràn lan khắp mọi lĩnh vực, mạnh ai nấy làm, giống như bàn tay xòe ra, bẻ ngón nào gãy ngón nấy, chẳng chịu cụm lại thành nắm đấm cho đủ sức mạnh và vững chắc. Ở xứ người, càng đông càng mạnh, ở ta thì thì ngược lại!? Chỉ gắng sức từng bộ phận mà không có sự phối hợp đồng bộ, tổng thể thì bị… chuột rút (vọp bẻ) cũng là lẽ đương nhiên!
Nhân hòa ở nước ta, thời nay thì chưa có và còn là cái phải nỗ lực mới có được. Mâu thuẫn giữa lợi ích nhóm và lợi ích của đa số nhân dân là rất gay gắt, có thể trở thành đối kháng (như vụ Văn Giang). Mâu thuẫn giữa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc” trong cuộc chiến thống nhất đất nước. Mâu thuẫn về quan điểm “thoát Trung”, giữa những người muốn cách tân đất nước và những người thủ cựu.
Lênin nói: “Đào xuống, lật ra, xới tung lên những hàng chữ dày đặc đủ thứ lý thuyết, ta sẽ thấy đằng sau đó lồ lộ hiện ra cái gốc quyền lợi trơ trọi, thô thiển!”.
Ở Việt Nam cần có anh hùng cái thế giải quyết các mâu thuẫn này để tạo ra nhân hòa thì mới có nội lực.
Hai thứ đầu tiên là thiên và địa vốn dĩ là những thứ nằm ngoài “nhân định”, nên chỉ có thể lựa theo, nương theo quy luật hoàn toàn khách quan của nó để mà thích nghi, để mà tạo lợi thế cho mình hoặc hạn chế tác hại, không thể can thiệp, tác động vào được. Thật nực cười, suốt bao nhiêu năm qua người ta chỉ quen dùng những cụm từ nông cạn, hạn hẹp và duy ý chí như “phòng chống bão lụt”, cả loài người này đã bao giờ chống được chưa (!?) và thiên tai đâu chỉ là bão và lụt (còn động đất, núi lửa, sóng thần, hạn hán, sa mạc, v.v.). Vậy, đúng ra phải là “phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai”!
Thay cho lời kết
Đất nước và con người là yếu tố cơ bản của nội lực. Chúng ta đều nói rất nhiều về “lỗi hệ thống” và tính lạc hậu của thể chế hiện tại, nhưng nói cho cùng thì hệ thống và thể chế đều do con người tạo ra. Vì vậy, nếu để Việt Nam phát huy được nội lực thì mỗi người Việt Nam, mà đầu tiên là các nhà lãnh đạo phải quyết tâm vượt qua chính mình chứ không phải ngồi chờ thể chế thay đổi. Đành rằng con người là quyết định, song đó là con người phải có trí tuệ, có ý chí, và anh ta phải có tự do. Chỉ có như vậy mới thực sự có nội lực.
Lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia, Nhà nước pháp quyền, xã hội dân chủ, đất nước giàu mạnh là trên hết. Thể chế là mảnh đất và môi trường để nội lực phát triển. Suy cho cùng nội lực phải bắt nguồn từ nguyên khí quốc gia. Nếu không biết sử dụng hiền tài, thì sẽ không tạo ra được nội lực cho đất nước.
T.V.T.
Nguồn: Văn Việt