Sở dĩ các thương vụ mua bán vũ khí giữa Mỹ và Việt Nam thất bại vì các viên chức hữu trách trong lĩnh vực quốc phòng tại Việt Nam đòi “lại quả” 25% tổng giá trị hợp đồng. Bởi luật pháp Mỹ cấm “lại quả” nên các đối tác phía Mỹ phải từ chối đáp ứng.
Vai trò của VAXUCO (Tổng Công ty Xuất nhập khẩu tổng hợp Vạn Xuân của Bộ Quốc phòng) trong mua sắm trang bị, thiết bị, phương tiện quân sự cho quân đội Việt Nam…
Thông báo nửa úp, nửa mở của Ủy ban Kiểm tra (UBKT) thuộc Ban Chấp hành Trung ương (BCH TƯ) đảng về những “vi phạm, khuyết điểm” của Ban Thường vụ Đảng ủy (BTV ĐU) VAXUCO và một số tổ chức đảng trực thuộc BTV ĐU này…
Việc khởi tố nhưng chỉ bắt… “bóng” bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc AIC Group…
Cũng như thông tin trên tờ Haaretz của Israel về chuyện đấu đá giành quyền lực ở thượng tầng, khiến bà Nhàn – người giữ vai trò quan trọng trong các thương vụ mua bán phương tiện quốc phòng giữa Việt Nam và Israel – bị… “truy nã đặc biệt”…
Như đã đề cập ở bài thứ nhất góp phần minh họa cho điều mà công chúng Việt Nam thắc mắc từ lâu: Tại sao việc dùng công quỹ để “hiện đại hóa quân đội” luôn luôn thiếu minh bạch? Giữ “bí mật quốc phòng” như thế có cần thiết không?
***
Trước nay ở Việt Nam, thông tin liên quan đến chi tiêu cho quốc phòng, mua sắm phương tiện quốc phòng luôn là “bí mật quốc gia”, tuy nhiên có thể khẳng định, loại “bí mật” này chỉ hiệu quả trong phạm vi… “quốc gia”!
Nếu sử dụng Google để tìm những thông tin liên quan đến chi tiêu quốc phòng của Việt Nam và các thương vụ mua bán phương tiện quốc phòng, riêng tiếng Anh đã có hàng ngàn trang web và vài chục ngàn tài liệu, bài viết với rất nhiều chi tiết về những chủ đề này. Ví dụ như trang web của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế đặt tại Stockholm, Thụy Điển (Stockholm International Peace Research Institute – SIPRI) (1). Ví dụ như Air University thuộc Bộ Chỉ huy Giáo dục và Đào tạo của Không lực Mỹ (2). Ví dụ như Export.GOV, một website của Cục Quản lý Thương mại Quốc tế của Bộ Thương mại Mỹ – ITA (3) hay trang web chính của ITA (4). Ví dụ như Defense Update một tạp chí online của Israel (5). Hay New Delhi Times của Ấn Độ (6)…
Những ví dụ vừa kể kèm đường dẫn bên dưới về một số tài liệu, bài viết cụ thể chỉ để minh họa một điều, trừ người Việt bị “che mắt, bịt tai”, thiên hạ, bao gồm cả đối tác lẫn… đối thủ đều biết khá tường tận về chi tiêu của Việt Nam cho quốc phòng, các dự tính về mua sắm phương tiện quốc phòng, những thương vụ cụ thể cũng như triển vọng mua bán phương tiện quốc phòng với Việt Nam,…
Cho dù chính quyền Việt Nam thường im lặng về chi tiêu cho quốc phòng cũng như cách phân bổ khoản chi này nhưng phân tích các số liệu không thường xuyên của Bộ Tài chính, thiên hạ ước đoán chi tiêu cho quốc phòng của Việt Nam đã tăng từ 4,9 tỉ Mỹ kim hồi 2017 lên hơn 6 tỉ Mỹ kim vào năm 2021, chiếm hơn 8% tổng chi tiêu của chính phủ. Chi tiêu cho quốc phòng của Việt Nam trong những năm gần đây chiếm hơn 2% GDP.
Đầu thập niên 2010, chính quyền Việt Nam dùng 93% ngân sách quốc phòng để mua phương tiên quân sự của Nga, 6% để mua phương tiện quân sự của Ukraine và 1% để mua phương tiện quân sự của Romania, Israel. Tỉ lệ vừa kể đã và đang thay đổi khi Việt Nam mở rộng tìm kiếm đối tác ở Úc, Brazil, Bulgaria, Canada, Pháp, Đức, Ấn Độ, Israel, Hà Lan, Ba Lan, Romania, Nga, Singapore, Nam Hàn, Tây Ban Nha, Ukraine, Anh, Mỹ.
Thiên hạ kể rất tường tận, chính quyền Việt Nam đã hoặc định mua những loại phương tiện quốc phòng gì, từ đâu (Chiến đấu cơ đa năng Eurofighter Typhoon. Chiến đấu cơ FA-50 của Hàn Quốc. Hỏa tiễn điều hướng, hỏa tiễn không đối không, Heron 1 – phương tiện bay không người lái của Israel,…), bắt tay với nơi nào để nâng cấp phương tiện quốc phòng hoặc nhận chuyển giao công nghệ (Hợp tác với Hà Lan để nhận hỗ trợ thiết kế và sản xuất tàu chiến. Nhờ Ấn Độ giúp nâng cấp khinh hạm lớp Petya để có thể chống tàu ngầm, nâng cấp phương tiện quốc phòng thời Liên Xô như: Hệ thống tầm nhiệt điều khiển hỏa lực cho T-54, T-55, trực thăng M-17, MI-8. Hợp tác với Nga và Ukraine để sản xuất xe vận tải quân sự. Với Israel để sản xuất súng trường Galil ACE 31/32)…
Tuy cùng nhấn mạnh Việt Nam là một khách hàng lớn, có nhu cầu tiêu thụ cao đủ loại phương tiện quốc phòng nhưng những tài liệu, bài viết liên quan đến vấn đề này đều đề cập đến thiếu minh bạch trong các chương trình mua sắm và tình trạng tham nhũng được… “thể chế hóa”. Chất lượng cũng như giá cả không quan trọng bằng “mối quan hệ với Bộ Quốc phòng và các bộ phận khác trong cơ chế ra quyết định của Việt Nam”!
Năm 2017, dựa trên các nguồn khả tín từ Bộ Quốc phòng Mỹ, Shephard Media (cơ quan chuyên thu thập các thông tin liên quan đến tình báo và quốc phòng của Anh), cho biết, sở dĩ các thương vụ mua bán vũ khí giữa Mỹ và Việt Nam thất bại vì các viên chức hữu trách trong lĩnh vực quốc phòng tại Việt Nam đòi “lại quả” 25% tổng giá trị hợp đồng. Bởi luật pháp Mỹ cấm “lại quả” nên các đối tác phía Mỹ phải từ chối đáp ứng (7).
Không phải ngẫu nhiên mà thiên hạ kháo nhau rằng, việc tham gia vào những thương vụ mua bán phương tiện quốc phòng với Việt Nam “đầy thách thức và rủi ro liên quan đến tham nhũng – đặc biệt là đối với những phía giữa vai trò môi giới hay là trung gian trên thị trường này”, chưa kể những trở ngại do tình trạng thiếu dân chủ và vi phạm nhân quyền tại Việt Nam có thể khiến chính phủ một số quốc gia sẽ ngăn cản việc thực hiện những thương vụ ấy.
Chú thích
(3) https://www.export.gov/apex/article2?id=Vietnam-Defense-Sector
(4) https://www.trade.gov/country-commercial-guides/vietnam-defense-and-security-sector
(6) https://www.newdelhitimes.com/vietnam-emerges-as-a-big-military-equipment-market/
(7) https://www.shephardmedia.com/news/defence-notes/can-us-get-foot-vietnams-door/
Leave a Comment