Thăng Long (VNTB)
Trong tình hình quốc nạn tham nhũng hoành hoành, đe dọa sự tồn vong của chế độ, Minh Thề càng chứng tỏ tầm nhìn của cha ông và ý nghĩa lịch sử, bất chấp thời gian.
Ngày 1-3-2018, UBND huyện Kiến Thụy (Hải Phòng) tổ chức đón nhận bằng công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Hội Minh Thề tại đền, chùa Hòa Liễu, xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy.
Hội Minh Thề ở Hòa Liễu ra đời cách đây gần 500 năm do Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, vợ Thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung đề xướng.
Vào thế kỷ 16, bà Vũ Thị Ngọc Toàn, người làng Trà Phương, huyện Kiến Thụy tài sắc vẹn toàn đã mở mang, xây dựng làng xã, làm nhiều việc thiện giúp dân, giúp đời, xây dựng, tôn tạo nhiều chùa chiền, góp phần chấn hưng đạo pháp trong vùng. Thời gian ở Dương Kinh, bà đã tiếp thu lễ thề của các đời trước, dựng nên Hội Minh Thề.
Mục đích của hội là để răn dạy con người phải biết dùng của công vào việc công, việc chung của cộng đồng như tu sửa chùa chiền, hương nhang, đền miếu, lập quỹ giúp đỡ người nghèo khó, cơ nhỡ.
Nội dung của hịch văn thề: “Nếu lấy của công làm việc công thì được các thần linh ủng hộ. Nhược bằng, có lòng tham, lấy của công làm của tư, nguyện cầu các chư vị thần linh đả tử! Y như lời thề…”, “Người nào tà tâm trộm cắp của nhau, nguyện cầu thần linh đả tử. Y như lời thề…”. “Ai dùng của công xây dựng việc công xin thần linh ủng hộ, ngược lại người lấy của công về làm của tư, xin thần linh đả tử… làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt”. “Mọi người trong làng từ hương chức đến nhân dân, trên là bô lão, dưới từ 18 tuổi trở lên, ai dùng của công dùng vào việc công xin thần linh ủng hộ, ai lấy của công dùng vào việc tư, cầu thần linh đả tử… làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt…”.
Vào thế kỷ XIX, nhà Nguyễn sắc phong bốn chữ vàng “Mỹ Tục Khả Phong” cho lễ hội Minh Thề. Thời Pháp thuộc, nội dung Hịch văn Hội Minh thề được chính quyền Đông Dương dịch ra tiếng Pháp để lưu truyền rộng rãi.
Sau hơn nửa thế kỷ bị gián đoạn, đến năm 1993, Khu cụm di tích đền – chùa Hòa Liễu được công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia, nhân dân địa phương phục dựng lễ hội truyền thống.
Đến năm 2001, 2002, Hội Minh Thề chính thức khôi phục, tổ chức vào dịp lễ hội truyền thống đền, chùa Hòa Liễu trong 3 ngày 14, 15 và 16 tháng Giêng. Theo đó, sáng 14 tháng Giêng, Ban tổ chức dựng đài thề trước cửa đền thờ Thái hoàng, Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn với sự chứng giám của thần linh và sự hiện diện của đông đảo người dân địa phương, du khách.
Một điều đặc biệt của lễ hội này đó là vì có lời thề không lấy của công làm của riêng, vì vậy, báo giới thường gọi lễ hội này là “hội thề không tham nhũng”. Tuy nhiên tính từ khi khôi phục lễ hội cho đến tháng Giêng Tân Sửu, chưa có bất kỳ một quan chức cấp cao nào ở trung ương lẫn cấp tỉnh ủy địa phương đến để “thề không tham nhũng” ở lễ hội được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia này.
Tư tưởng đặc sắc của lễ hội Minh Thề là nhằm giáo dục mọi người, từ chức sắc đến nhân dân tích cực làm việc thiện, không làm điều ác, không tham nhũng, lấy của công làm của tư.
Lễ hội Minh Thề không chỉ mang những giá trị nổi bật sâu sắc và độc đáo về lịch sử, văn hóa, giáo dục, mà còn mang tính thời sự về xây dựng trật tự, kỷ cương, tính thượng tôn pháp luật, phòng chống tham nhũng, lãng phí mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã liên tục kêu gọi suốt thời gian qua.
Nếu lại thêm một năm Minh Thề nữa vắng bóng quan chức cấp cao, có lẽ đành phải giải thích rằng lễ hội Minh Thề là lễ hội của làng. Còn cán bộ, đảng viên thì phải học tập và làm theo đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh, chứ ai lại đi thề trước thần linh như cha ông ta kiểu ‘dễ mắc lời thề’ đến như vậy (!?)
Leave a Comment