Má tôi ra đi đã năm ngày. Tôi không thể bày tỏ được tổn thất này. Tôi thường về ăn tết với Má, tôi coi bà là sợi dây nối tôi với quê hương. Má đi rồi, tôi vẫn mất ngủ như khi bà còn đó, vẫn nghe tiếng bà đêm đêm kêu đau, muốn trở mình hay muốn uống nước.
Lo xong đám tang cho Má, tôi ốm gục mấy hôm nay. Tất cả những căng thẳng, stress mấy tháng qua đã khiến tôi suy nhược thần kinh. Tôi nằm đó, luôn nghe tiếng Má rên khi khó thở. Nằm mà không ngủ được. Rồi tôi an ủi để cố ngủ: Dù sao Má đã được chúng con chăm sóc trong những ngày cuối cùng. Má đã mãn nguyện, vì ở tuổi 97, Má vẫn bắt con phải đi thẳng lưng, để khỏi bị gù, Má vẫn gọi điện ra Hà Nội nhắc anh Lộc chịu khó ăn, vẫn giục em Nhung uống thuốc.
Mấy đêm nay, mối tình mẫu tử của Phạm Đoan Trang và mẹ cô, bà Bùi Thị Thiện Căn khiến tôi thêm trăn trở. Bà Căn không được may mắn như Má. Bà không được phép chăm lo cho cô con gái bệnh tật nằm trong xà lim lạnh lẽo. Ngày xử con gái, bà không được đến gần con. Từ chỗ chỉ là một cô giáo về hưu, không quan tâm đến chính trị, bà đã trở thành một người hiên ngang đối mặt với công quyền, quyết bảo vệ và tiếp sức cho đứa con yêu quý của bà.
Hình ảnh Trang cố ngoái cổ lại nói với mẹ: “Mẹ ơi con yêu mẹ! Con không sợ gì đâu. Mẹ giữ sức khỏe nhé“ khiến tôi dù còn ốm, vẫn phải gượng dậy viết những dòng này.
Tôi không quen Đoan Trang trong đời. Nhưng chúng tôi quý trọng nhau qua những suy nghĩ thể hiện trên mạng. Tôi không dám so mình với Trang. Em nhỏ hơn tôi 27 tuổi, nhưng em hơn hẳn tôi ở lòng dũng cảm và sức chịu đựng. Tôi rất mừng khi được Trang kết bạn. Tôi đọc từng bài em viết, theo dõi từng bước đi của em. Tôi đau lòng khi nghe em bị đánh vỡ đầu gối, lo lắng nghe tin em sắp mổ lại chân. Chúng tôi chỉ trao đổi với nhau vài lần. Mỗi
lần như vậy tôi lại thấy ấm lòng.
Khi Trang bị bọn du côn đánh đập, tôi viết bài “Về những chiếc mũ”[1] để lên án nạn sùng bái bạo lực đang ngự trị ở Việt Nam. Chiếc mũ nhựa vỡ tan sau khi chúng đánh Trang khiến tôi liên tưởng đến bức ảnh “Con gà ấp trứng trong mũ sắt” đã gây ấn tượng cho tôi từ hồi bé. Hình ảnh chiếc mũ sắt rỉ, biểu tượng của chiến tranh, đã bị con gà biến thành tổ ấp trứng là hình ảnh sinh động về cái thiện thắng cái ác.
Những kẻ sùng bạo lực sợ hình ảnh đó làm cho con người ta yếu mềm, không còn hăng say chém giết nhau nữa. Thế là bức ảnh của phóng viên VNTTX Đức Như chụp trong những năm 1960 bị cấm, tác giả bị phê bình. Bức ảnh một thời nổi tiếng đó nay đã bị xóa khỏi trí nhớ của người Việt, có thể coi là thất truyền.
Hậu quả của việc coi trọng bạo lực, tận diệt những mầm mống của tình người là: Sau gần nửa thế kỷ hòa bình, người Việt vẫn sống trong một xã hội hướng bạo lực. Người ta thích dùng bạo lực để xử lý các xích mích cá nhân. Chuyện chém giết nhau chỉ vì tiền, vì đất đai không còn là điều lạ ở đất nước này. Thậm chí cả nhà chùa, chốn từ bi, không sát sinh, cũng sử dụng bạo lực. Đã có những cuộc tranh chấp chức thầy chùa kết thúc bằng án mạng.
Cái gốc của thảm cảnh này là do nhà nước coi việc dùng bạo lực để nói chuyện với dân là quốc sách. Dù là người dân đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược, hay đứng ra bảo vệ đất đai bị cướp, bảo vệ môi trường sống của mình, chống tham nhũng, tất cả đều được trả lời bằng còng số tám và nhà tù.
Bản án dành cho Đoan Trang mà bà thẩm phán Chử Phương Ngọc lạnh lùng tâng công hôm 14.12 vừa rồi chỉ là một ví dụ.
Nhà tù và sự sợ hãi không thể giữ chế độ lâu dài, nhưng chúng làm suy thoái cả một dân tộc. Điều nghịch lý là những kẻ ưa bạo lực luôn là kẻ bạc nhược, đớn hèn. Người Đức thời quốc xã đã từng như vậy. Tướng lĩnh Phổ nổi tiếng là mưu lược và giỏi dùng binh. Hầu hết sỹ quan Đức từ 1943, sau Stalingrad, đều nhận ra rằng nước Đức đã thua trận. Nhưng không một ai dám hé miệng chống lại những kế hoạch mà họ biết là mang yếu tố tâm thần của Hitler. Hậu quả là nước Đức bị hủy diệt, dù tầng lớp tinh hoa của Đức đều biết trước. Sự bạc nhược do trại tập trung đem lại làm cho trí thức Đức quên mất thiên chức của con người: Bảo vệ lẽ phải.
Nước Đức sau 1945 đã từ bỏ mọi hình thức bạo lực chống lại nhân dân. Nhờ vậy họ có được những thế hệ công dân dũng cảm, tự tin. Các thế hệ này đã xây dựng được nước Đức như hôm nay.
Đoan Trang coi bảo vệ lẽ phải là thiên chức của con người. Đó chính là civil courage.
Lòng dũng cảm của công dân (civil courage) là vốn quý của mỗi dân tộc. Tìm cách bóp chết nó là một tội ác.
Nhà báo Ý Franca Magnani từng nói: “Đất nước nào càng có nhiều công dân dũng cảm thì càng ít cần đến những người anh hùng”. (“The more citizens with civil courage a country has, the fewer heroes it needs”)
Người Việt thích nói và thích nghe về những người anh hùng. Nhưng họ luôn né tránh những gì họ coi là “chính trị”. Né tránh vì họ bị khuất phục bởi sợ hãi. Né tránh là đứng về phía chính trị của bạo lực và thật ra là đang làm chính trị. Có những người không đến mức như vậy trước cái ác, nhưng cũng chỉ ở mức trông vào “ác giả ác báo”.
Tôi không chắc là Trang tin vào “nhân quả”, nhưng chắc chắn em là người dám đem cuộc đời của mình để chống lại cái ác. Với năng lực báo chí và vốn ngoại ngữ của mình, em có thể có cuộc sống no đủ, có gia đình yên ấm ở nước ngoài. Nhưng em quyết về nước. Ở đó em còn mẹ già và đó là tổ quốc em.
Trang nhắn nhủ:”Xin chăm sóc mẹ tôi giùm, đừng để mẹ tôi nghĩ là hai mẹ con đang đơn độc”.
Trang ơi, anh mong có ngày được gặp em ngoài đời, được ôm em vào lòng như một đứa em gái. Anh sẽ đến thăm mẹ em.
Leave a Comment