tuankhanh – RFA
Được biết, vào ngày 9-1, tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức Lễ phát động cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài thiếu nhi, trao giải thưởng Tác giả trẻ lần thứ nhất. Ông Chủ tịch Nguyễn Xuân Phúc dự và phát biểu chỉ đạo. Cùng dự có ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương.
Nói trong buổi lễ này, ông Phúc nói “Tôi luôn mong ước đến một ngày không xa Việt Nam ta sẽ có nhà văn đoạt giải Nobel văn chương, mang về niềm tự hào cho đất nước chúng ta. Tôi có niềm tin mạnh mẽ ở những nhà văn, những Tác giả trẻ hôm nay”.
Nhân ý tưởng này, xin phép được phỏng vấn nhà văn Nguyễn Viện về văn học và đời sống của nó chung quanh “ước mơ” này.
***
Nếu nghĩ đến một giải Nobel văn chương cho Việt Nam vào 5 năm nữa, ông có đề cử tác giả nào trong nước? Nếu có hoặc không, xin ông lý giải thêm về điều này.
Nhà văn NGUYỄN VIỆN:
Cứ như tình hình sáng tác và phổ biến văn học Việt Nam hiện nay, không chỉ 5 năm mà còn rất nhiều năm nữa Việt Nam cũng chưa thể có giải Nobel.
Lý do:
-Các giám khảo ở Viện Hàn Lâm Thụy Điển không đọc được chữ Việt.
-Như chúng ta đều biết, chữ quốc ngữ xuất hiện chưa lâu. Hơn nữa, văn học chữ quốc ngữ xuất hiện còn trễ hơn nữa, chỉ mới hơn 100 năm. Và thật sự cái gọi là văn chương Việt đúng nghĩa chỉ hoàn chỉnh từ thời tiền chiến, tức trước 1945 mà tiêu biểu nhất thuộc về nhóm tác giả Tự Lực Văn Đoàn. Tuy thế vốn từ của chúng ta lúc đó cũng chưa nhiều. Phải kể từ hậu bán thế kỷ 20 đến nay, ngữ vựng các thể loại mới được cập nhật bổ sung từ lãnh vực triết học đến khoa học… tương đối đầy đủ. Như thế có thể nói tiểu thuyết hay văn học chữ quốc ngữ vẫn còn nằm trên đường tiến hóa không những về mặt ngôn từ mà cả văn hóa, chính trị, xã hội. Điều ấy cũng có nghĩa chỗ đứng của văn học Việt Nam còn cách giải Nobel khá xa.
Tuy nhiên, nếu cần đề cử một tác giả Việt Nam cho giải Nobel trong một hai năm tới, tôi nghĩ nhà văn Nguyễn Xuân Khánh có thể là một niềm hy vọng, với điều kiện hội đồng xét giải Nobel này cũng có tiêu chí “đậm đà bản sắc dân tộc” như tuyên giáo ở Việt Nam.
Theo ông, mơ ước của ông chủ tịch nước, có thể hiện chung cho giới viết văn trong cả nước, không phân biệt các thế hệ và quan điểm tư tưởng, hay chỉ nhắm vào thế hệ mới, nhà văn xã hội chủ nghĩa?
Nhà văn NGUYỄN VIỆN:
Không chỉ ông chủ tịch nước, mà giới viết văn trong nước cũng mơ ước một giải Nobel, đặc biệt từ khi các nhà văn Nguyễn Huy Thiệp hay Bảo Ninh xuất hiện. Tuy nhiên, ông chủ tịch nước chỉ đặt niềm hy vọng vào thế hệ mới.
Đấy là một ước mơ chính đáng, nhưng tôi nghĩ nó có thể sẽ hiện thực hơn nếu chúng ta biết đặt cho nó một lộ trình. Trước hết, cần tạo một không gian tự do cho sáng tạo. Cũng có nghĩa là nên để cho Ban Tuyên giáo hoàn thành nghĩa vụ lịch sử, chấm dứt mọi chỉ đạo hay đường hướng. Sau đó, cần có kế hoạch cho việc phổ biến tác phẩm ra thế giới. Như tôi đã nói trên, Hội đồng xét giải Nobel không biết đọc chữ Việt.
Nhân đây, tôi cũng mạn phép nói thêm một chút. Tôi không biết giới hạn của tùy viên văn hóa của ta ở nước ngoài thế nào. Nhưng tôi cho rằng, đối ngoại về văn hóa không chỉ là áo dài, múa quạt, phở hay đàn bầu, đàn T’rưng… mà còn là văn học, mỹ thuật…
Trong 10 năm đổ lại đây, cây viết nào – được phía nhà nước chấp nhận – là sáng giá và có khả năng nhất? Nếu có, xin mô tả ngắn về người được liệt kê. Và nếu không thì xin giải thích thêm theo quan điểm riêng?
Nhà văn NGUYỄN VIỆN:
Thật ra, tôi đọc cũng không nhiều, chỉ vì mắt tôi sau này kém, đọc sách hay xem phim một chút là mắt bị mờ nhòe. Cho nên, nhận định của tôi ở đây sẽ rất chủ quan và hạn hẹp, nó không thể bao quát hết nền văn học đương đại.
Dẫu sao cũng có một tác giả trẻ tôi kỳ vọng, đó là nhà văn nhà thơ Vũ Lập Nhật, sinh năm 1990, hiện sống ở Saigon. Cả thơ và văn của cô đều rất mới với những ý tưởng lạ và một cách diễn đạt thông tuệ. Cách đây 2 năm, cô được giải thưởng thơ của Văn Việt (Văn đoàn Độc Lập). Rất tiếc, vì những áp lực phi văn hóa, cô đã phải từ chối nhận giải, thậm chí chấm dứt cộng tác bài vở với Văn Việt.
Vũ Lập Nhật, theo tôi là một hiện tượng hiếm hoi của văn học Việt Nam đương đại. Văn chương của cô từ bỏ mọi lối mòn, mọi truyền thống. Đó là một thế giới của riêng cô, được sản sinh từ một đời sống đô thị. Và tác phẩm biến thành một thứ game của cô, cả về mặt ngôn ngữ lẫn trạng thái con người. Nó không uốn éo kiểu cọ, làm dáng mà trong trẻo xuyên suốt qua các tầng ý thức như qua nhiều lớp gương phản chiếu lẫn nhau trong cách ứng xử của cô với đời sống. Đó là một thứ văn chương toàn cầu. Con người và chính nó thuần khiết, không đậm đà bản sắc dân tộc hay nghĩa vụ này nọ.
Các giải thưởng văn học trong những năm dài do Hội Nhà Văn Việt Nam chủ trì thường gây tốn kém cho ngân sách quốc gia không it, nhưng hầu như ít có tác phẩm nào có thể đọng lại trong công chúng. Theo ông, hướng tập hợp và giới thiệu qua giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam có nhằm phục vụ tìm tài năng với tiêu chí của Nobel Văn Chương?
Nhà văn NGUYỄN VIỆN:
Hẳn nhiên là không.
Văn học Việt Nam hiện nay trong phạm vi “chính thống” hay “lề phải” là một thứ văn chương phải đạo, thậm chí với nhiều tác giả là thứ văn chương phục vụ chế độ như tiêu chí của Hội Nhà văn Việt Nam “Vì chủ nghĩa xã hội”. Một nền văn chương mang logo búa liềm tất nhiên không phải là một tiêu chí phổ quát của loài người, cũng có nghĩa không phải là tiêu chí của giải Nobel.
Kể từ năm 1991, khi tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh bị thu hồi và lấy lại giải thưởng sau khi công bố đoạt giải, văn học trong nước nói chung có vẻ bằng phẳng và không còn nhiều góc cạnh, sôi động như thời của Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp… Có phải đã có một rào chắn rõ ràng trong việc viết văn trong khung nhà nước?
Nhà văn NGUYỄN VIỆN:
Vâng, một rào chắn cụ thể hữu hình nhất là sự có mặt của các nhà xuất bản hệ nhà nước. Mọi tác phẩm muốn được phổ biến phải qua sự cho phép của các nhà xuất bản này mới được lưu hành. Từ chối kiểm duyệt để in chui có nghĩa là một hành động phạm pháp được qui định rõ ràng trong bộ luật hình sự.
Nhà tù và các bản án dành cho những người bất đồng chính kiến với các khung hình phạt dành cho tội “tuyên truyền chống chế độ” hay “lợi dụng quyền tự do dân chủ…” là nỗi ám ảnh của tất cả những người viết.
Nhà văn, ngoài nỗi sợ hãi phải tự kiểm duyệt, họ còn phải đối diện với dao kéo của các nhà xuất bản. Đó là một hiện thực của văn học nghệ thuật đương đại. Điều đó giải thích cho cái mà anh gọi là thiếu góc cạnh hay sôi động.
Còn về phía những nhà văn không hợp tác với hệ thống kiểm duyệt và tư tưởng phục vụ – như ông chẳng hạn – làm gì với nghề viết của mình? Ông có thể tâm tình với độc giả?
Nhà văn NGUYỄN VIỆN:
Với những người viết văn tự do như tôi hiện nay ở Việt Nam cũng không thiếu. Chúng tôi phải làm gì trước cánh cửa đóng của hệ thống phát hành trong nước?
Rất may cho tất cả chúng ta, người viết và người đọc, internet đã cứu rỗi thế giới khỏi những lằn ranh của kiềm tỏa. Việc có tự tháo gỡ gông cùm hay không tùy thuộc vào ý thức cũng như phẩm giá của từng người viết. Không ai có thể ban tự do cho anh ngoài chính anh. Những bức tường lửa chỉ là vấn đề kỹ thuật.
Ngoài những trang mạng nổi tiếng như Tiền Vệ, Talawas trước đây và hiện nay là Da Màu, Văn Việt… chúng ta còn vô số cách để đưa tác phẩm của mình đến với công chúng, miễn là có chút can đảm.
Tâm tình của tôi? Tôi chỉ muốn nói một điều đơn giản, nếu chúng ta không dám thành thật với mình để viết như chúng ta muốn (không sợ đụng chạm đến hệ thống chính trị hay truyền thống văn hóa) thì cơ may trở thành một nhà văn như ý nghĩa của nó sẽ không hiện thực. Tài năng là chuyện khác.
Dù biết Việt Nam là một thể chế độc tài và kiểm duyệt, nhưng vẫn có không ít tác phẩm của các nhà văn Việt Nam ở hải ngoại về in lại, hợp tác phát hành và chấp nhận cắt bỏ những gì nhà nước không thích. Tạm thời không bàn gì về lý do cá nhân của các tác giả ấy, nhưng ông nhận định gì về xu hướng này? Và điều đó có thể giúp cho nhà nước Việt Nam tập hợp thêm được nhiều cây viết tài năng hơn cho ước mơ Nobel hay không?
Nhà văn NGUYỄN VIỆN:
Trong khi ở trong nước, nhiều người viết từ chối kiểm duyệt để tồn tại như một người tự do, thì lại có những người viết ở xứ sở tự do tình nguyện quay về chui vào vòng kiềm tỏa. Sự khao khát được chia sẻ hay vinh quang gì đó được đánh đổi bằng phẩm cách. Dẫu sao thì đó cũng là chọn lựa của họ.
Tất nhiên, điều đó chẳng giúp gì “cho nhà nước Việt Nam tập hợp thêm được nhiều cây viết tài năng hơn cho ước mơ Nobel” như anh nói. Vì đơn giản là hội đồng xét giải Nobel không đọc được tiếng Việt.
Trong lịch sử, Liên Xô cũng đã có Nobel cho Boris Pasternak hay Trung Quốc với Mạc Ngôn… đó có là niềm tin thầm kín cho nhà lãnh đạo Việt Nam khi nghĩ về một Nobel? Và theo ông, vì sao ông Phúc không nghĩ đến giải thưởng văn chương nào của Trung Quốc, Cuba hay Bắc Hàn… mà lại mơ đến một giải thưởng của thế giới tư bản?
Nhà văn NGUYỄN VIỆN:
Vâng, “trong lịch sử, Liên Xô cũng đã có Nobel cho Boris Pasternak hay Trung Quốc với Mạc Ngôn”. Và Việt Nam cũng có quyền đặt niềm tin vào các nhà văn trong nước, tuy nhiên như tôi đã nói, hội đồng xét giải Nobel không biết đọc tiếng Việt. Tôi lập lại câu nói này nhiều lần trong bài trả lời phỏng vấn này cũng chỉ để muốn nhấn mạnh đến một việc thiết thực nhất là hãy nỗ lực giúp các nhà văn Việt Nam phổ biến tác phẩm ra thế giới bằng cách vận động hay tổ chức dịch thuật các tác phẩm ra tiếng nước ngoài (ít nhất là Anh-Pháp) và được phát hành bởi những nhà xuất bản uy tín. Nếu không, chúng ta chỉ còn cách phổ cập tiếng Việt cho các viện sĩ hàn lâm Thụy Điển.
“Và vì sao ông Phúc không nghĩ đến giải thưởng văn chương nào của Trung Quốc, Cuba hay Bắc Hàn… mà lại mơ đến một giải thưởng của thế giới tư bản?”
Làm thế nào tôi có thể đưa cái icon mặt cười haha của Facebook vào đây nhỉ? Nhưng thử tưởng tượng nếu ông Nguyễn Viện được một giải văn chương tự do hay phản kháng gì đó của đồng chí Kim Jong-Un thì chắc chắn sẽ “chấn động địa cầu” hơn cả giải Nobel. Cũng vui mà.