Con đường mà nhà tiên tri Moses đưa người Do Thái đến miền đất bình an chỉ có duy nhất một nguy nan rượt đuổi, đó là đạo quân điên cuồng của Ai Cập muốn sở hữu con người làm nô lệ; nhưng hành trình về lại quê nhà của hàng trăm ngàn người lao động nghèo khổ, những giọng nói khác nhau từ mọi miền đất Việt Nam thì gian nan hơn rất nhiều.
Ba lần chịu không nổi sự khó khăn, người lao động nghèo, lưu dân… đã phải rời bỏ Sài Gòn. Mỗi một lần ra đi, họ đều phải chịu đựng sự chỉ trích đầy ác ý của chính quyền. Mà thật ra, mục đích cuối cùng của những kẻ cầm quyền cũng không khác các lãnh đạo Pharaoh Ai Cập cách đây 1500 năm trước Công nguyên: Muốn duy trì một lực lượng lao động nô lệ để mọi thứ không suy sụp.
LẦN THỨ NHẤT, NGÀY 15 THÁNG TÁM
Bị giam lỏng trong các ngôi nhà chật hẹp, mọi thứ bế tắc vì không thấy một hứa hẹn thực thi nào về an sinh, trong khi tình hình dịch bệnh lan nhanh theo cách hô hoán của nhà nước, họ khăn gói lên đường. Các nhân vật như Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam hay Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long đều có những cảnh báo xám xịt về đại dịch, nhưng không đưa ra lời giải cụ thể nào. Hàng ngàn người khăn gói về quê, và bị luận điệu truyền thông gọi một cách khinh miệt là đám người “tự phát”, với sự mô tả như thể chuyện di chuyển về quê nhà của họ là một thú vui và một hành động lạc loài trong một xã hội tuyệt đối “sống và làm việc theo pháp luật”, chấp nhận sống và chết ở Sài Gòn, theo lệnh Đảng, Nhà nước. Báo chí truyền hình và lực lượng tuyên truyền viên đã đấu tố họ không ngừng.
LẦN THỨ HAI, NGÀY 15 THÁNG CHÍN
Trong vòng vây kẽm gai, quân đội rầm rập và chính sách phong tỏa như thiết quân luật, khiến người dân bị lùa vào các chốt chặn phạt tiền vô tội vạ, tịch thu tài sản, hàng đoàn người lại kéo nhau lên đường. Tiếng kêu khóc và uất ức của người dân xuất hiện khắp nơi trên YouTube, TikTok, Facebook… Đến đầu Tháng Mười, theo thống kê của báo chí Nhà nước, các cuộc chặn bắt, cố phạt cho được như để tạo ngân sách nuôi chính trùng trùng lớp lớp lực lượng kiểm tra – bắt đầu trở thành kiêu binh, dẫn đến chuyện chèn ép, lùng bắt, đánh đập người dân ở khắp nơi – đạt được con số 20 tỷ đồng (khoảng $880.530).
Ở Sài Gòn, con số thu đó không lớn. Nhưng nếu đối chiếu với cảnh những người lao động nghèo quỳ lạy và khóc cảm ơn khi được giảm tiền nhà, được cho thêm ít tiền trợ giúp, thì có thể hiểu trong tình cảnh khốn cùng đó, số thu tiền trên nước mắt và nỗi đau con người phải được tính bằng chỉ số của sự man rợ. Và người khốn khó bị dồn đẩy đến tận bùn đen, một lần nữa, vẫn bị chỉ trích bằng giọng điệu khinh miệt, bị gọi “những kẻ thiếu ý thức” trong đại dịch. Các gói hỗ trợ được tuyên bố ầm ĩ mà không có. Những người đói khổ vẫn mệt mỏi chờ đợi với những tiêu chuẩn xét duyệt đưa ra vào giờ cuối. Và khi phản ứng lại thì họ bị ghép tội phản động hoặc quấy rối trật tự công cộng.
LẦN THỨ BA, NGÀY 30 THÁNG CHÍN
Lúc này con số người đổ về quê còn nhiều hơn hai đợt trước, bởi họ đã có đủ kinh nghiệm đau đớn và tươi mới về sự thật. Không đơn giản là những người đi tìm đường sống, họ giống như những kẻ vượt thoát khỏi nơi bị cầm tù, không chỉ bằng hàng rào kẽm gai phong tỏa mà còn bằng những ngôn ngữ mị dân, bằng tình thương đồng loại được tô hồng rực rỡ nhưng hoàn toàn vô nghĩa. Đó là lý do vì sao mà những cuộc xung đột ở các chốt chặn đã xảy ra. Đoàn người rùng rùng ra đi không khác gì như một cuộc xuống đường vì sự sống. Bất tín và phẫn nộ, vì không chỉ bấp bênh nơi đô thị, những kẻ khốn cùng tội nghiệp còn bị rượt đuổi và bị phạt vạ vô lý lẽ. Cạnh đó, họ còn phải bỏ tiền túi ra để phục vụ cho một chiến dịch xét nghiệm vô nghĩa, bị nạo tận đáy túi tiền vốn đã cạn thủng của mình.
Dĩ nhiên, như luôn luôn, sự uyển chuyển của ngành tuyên giáo và của những người lãnh đạo thật đáng nể. Lúc này họ dừng mọi ngôn ngữ xúc xiểm, miệt thị để đổi thành một tấm biểu ngữ nền đỏ chữ vàng “Trân trọng mời người lao động ở lại để giúp sức cho thành phố”. Đáp trả cho sự trân trọng muộn màng đó, 1,3 triệu người lao động đã tháo chạy về quê – nơi cùng cực nhất mà từ đó họ ra đi, nhưng thà quay về, còn hơn nán lại để nuôi một niềm tin vô vọng.
Họ, những con người vô danh đó, là phác họa rõ nét đến vô cực về một đất nước đầy những quảng bá phồn vinh và sự kiêu hãnh của kẻ cầm quyền. Họ là những sinh mệnh Việt Nam với nỗi cô quạnh của hiện tại lẫn tương lai. Họ mang hình dáng của một đất nước Việt Nam lặng đứng trong mưa tầm tã chịu đựng trước một thực tế hàng rào kẽm gai và trước một tương lai gai kẽm đâm vào mắt. Họ mang nỗi niềm của một đất nước với cảnh quỳ lạy những kẻ nô bộc mặc sắc phục hiển hiện gương mặt lạnh lùng tuân thủ răm rắp theo chỉ thị. Họ chỉ ra viễn cảnh quê hương Việt Nam với tương lai u uất mang bóng tối của phận mình: Sống không đủ no, đời không đủ đẹp nhưng phải tiếp tục cống hiến cho sự sống của Đảng cai trị.
Hãy tưởng tượng, nếu đoàn quân Ai Cập của những pharaoh chạy đến sát bờ Biển Đỏ, chỉ nhằm kêu gọi người Do Thái hãy “quay trở lại với sự trân trọng” để cùng phục hồi và xây dựng nền kinh tế của vương quyền Ai Cập, thì lịch sử nhân loại có thay đổi không, một khi những người Do Thái của nhà tiên tri Moses chọn quay đầu? Tư thế của những người Do Thái lúc đó là một lực lượng lao động thấp hèn. Nếu chọn quay trở lại, họ chỉ nhận được miếng cơm với đòn roi và chấp nhận cuộc đời không thể hoán cải giai cấp của mình. Trong một chế độ độc tài, mọi lời vuốt ve đẹp đẽ nhất, tha thiết nhất cũng chỉ ẩn chứa thông điệp như vậy mà thôi. Giả như Biển Đỏ không tách làm đôi, những người Do Thái chắc cũng sẽ lao mình về hướng tự do để chứng minh phẩm giá của họ.
Trải qua đại dịch, những con người cần lao Việt Nam mới thực sự thấy được số phận và tương lai ở đâu, trong một đất nước đầy pháo hoa rực rỡ và tượng đài kiêu hãnh. Hành trình của những con người vô danh Việt Nam cùng nhau chạy về quê nhà là tiếng sấm chớp trong màn đêm u tối, là những đường vạch sáng lòa soi rõ con người Việt Nam đang cần sự thật, và đất nước ngàn năm này đang khao khát tận cùng một tương lai cho dân tộc chứ không phải riêng cho một chế độ cầm quyền. Những gương mặt vô danh ấy đã giúp mở ra một bài học đắt giá cho con người Việt Nam hôm nay – những bài học được chứng thực bằng nước mắt, cái chết, đói nghèo và vô vọng.
Những con người ấy – tương tự người Do Thái – đã không chọn niềm tin viển vông hay thỏa hiệp và dễ dàng quay trở lại. Họ – những con người vô danh ấy – mang theo sự khắc khoải trên vạn trùng nẻo đường quê hương. Họ là những gương mặt đáng nhớ nhất của năm./.
Leave a Comment