Quảng Cáo

Trong hoảng loạn, tôn giáo đang giúp trấn an – việc mà nhà nước không làm được

Một người cầu nguyện trước Nhà thờ Lớn, Hà Nội vào tháng 4/2021. Ảnh: VOV

Quảng Cáo

Nếu không bị trói buộc, bàn tay tôn giáo có thể chìa ra giúp nhiều người hơn nữa

Luật Khoa Tạp Chí

Trong những ngày này, bạn có thể đang trải qua khoảng thời gian khó khăn chưa từng gặp. Cuộc sống của mỗi người gần như không còn nằm trong sự kiểm soát của bản thân nữa. Nơi an toàn nhất, ngôi nhà của bạn, cũng là nơi khó khăn nhất vì cảm giác như bị mắc kẹt, không thể tiến lên phía trước. Tất cả hoạt động đều bị đình trệ vô thời hạn: công việc, học hành, giải trí. Kể cả lương thực, thực phẩm cũng không dễ dàng mua được như ý muốn.

Bạn biết lo lắng cũng không giúp ích được gì trong tình trạng hiện nay, nhưng bạn không ngừng được tâm trạng đó. Bạn thức dậy trong lo lắng, và mang theo tâm trạng đó vào cả trong giấc ngủ. Trước kia, khi buồn phiền, bạn có thể gặp mặt bạn bè, đi đâu đó hay mua một món quà để khuây khỏa nhưng bây giờ thì điều đó gần như là không thể.

Nếu bạn tìm kiếm một tuyên bố nào đó mang tính khẳng định của nhà nước về tình hình dịch bệnh hiện nay, tôi không chắc bạn có thể tìm thấy. Và dù có thể tìm thấy thì bạn biết rằng sự hứa hẹn đó cũng chỉ có tính chất tương đối. Trong tình trạng bất an như vậy, người ta phải tìm kiếm sự trấn an từ nơi nào?

Lời trấn an giữa cuộc khủng hoảng

Đương nhiên, lời trấn an của các tôn giáo thường mang màu sắc tâm linh. Nếu bạn là một tín đồ tôn giáo, sự giải nghĩa đó chắc hẳn giúp bạn bình tĩnh hơn trước khó khăn.

Trong bài giảng trực tuyến của Tổng Giám mục tổng giáo phận Sài Gòn Giuse Nguyễn Năng vào ngày 8/8/2021, ông nói với các tín đồ: “Chúa đã chỉ ra cho chúng ta cái cách giải quyết cái đói khát thân xác của chúng ta rồi. Đó là chúng ta chia sẻ cho nhau, chúng ta tập làm tính chia, chúng ta chia cho nhau, lương thực trên thế giới này không thiếu chỉ cần chúng ta tổ chức lại vấn đề quản lý, chúng ta có thể giúp nhau được…”. [1]

Một tuần sau bài giảng trên, ông nói với các tín đồ về cái chết: “Trong những ngày này, anh chị em đang chứng kiến nhiều cái chết, có những cái chết người thân không được gặp, có những người đi cách ly rồi bị bệnh rồi chết, rồi được đi hỏa táng, người ở nhà nhận lại một hũ tro… Xin Đức Mẹ ôm lấy các bệnh nhân, đặc biệt bệnh nhân COVID đang trải qua những giờ phút khó khăn, hoặc là đang hấp hối, xin Đức Mẹ ôm lấy và đưa về đời sau”. [2]

Vào ngày 20/7/2020, Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng đã trấn an các Phật tử và kêu gọi ai có khả năng hãy giúp đỡ những người đang gặp khó khăn: [3]

“Nếu chúng ta sanh ra trong cái thời kỳ ở trong một cái vùng mà có dịch bệnh xảy ra hay là có nạn trời… Cái thực tế nhất mà Đức Phật khuyên chúng ta chỗ này [trong hoàn cảnh này] là bởi vì chúng sanh có khổ thì Bồ Tát mới có bi… Ngày nay, chúng ta sống trong một thành phố, một đất nước mà dịch bệnh đang lan rộng đây, chúng ta phải khởi lên đại bi tâm với tất cả khả năng chúng ta có thể đóng góp được, giúp đỡ được cho mọi người… Chúng ta sẵn lòng làm việc này tức là chúng ta làm cái hạnh của Bồ Tát, và chúng ta tu theo tinh thần Kinh Pháp Hoa nhất thừa của Đức Phật dạy chúng ta”. [4]

Quyền tự do tôn giáo và phúc lợi của người dân

Ni cô Thích Nữ Nhuận Bình chăm sóc một bệnh nhân COVID-19 tại Bệnh viện Dã chiến số 12, TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: Nguyễn Á/ Tuổi Trẻ.

Có thể bạn nghĩ rằng những lời trấn an như vậy chỉ có hiệu quả với tín đồ của tôn giáo đó. Bạn có thể đúng. Tuy nhiên, những tín đồ tôn giáo khi được trấn an sẽ có thể giúp đỡ những người đang cầu cứu. Với sự an lòng đó, họ có thể là tình nguyện viên y tế, có thể là những người đi phân phát thực phẩm, thuốc men, v.v.

Hơn một tháng qua, hàng nghìn tình nguyện viên là các tu sĩ, tăng ni, tín đồ của Công giáo, Phật giáo, Tin Lành đã tham gia chăm sóc bệnh nhân COVID-19. [5] Người nhà của các bệnh nhân cũng có thể yên tâm phần nào khi biết có những tình nguyện viên như vậy đang chăm sóc người thân của mình.

Cung cấp dịch vụ xã hội, hoạt động nhân đạo vốn là tôn chỉ hàng đầu của các tôn giáo. Tại các quốc gia dân chủ, nhà nước luôn tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo thực hiện sứ mệnh này.

Tuy nhiên, khả năng giúp sức của tôn giáo trong khủng hoảng như hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các tổ chức này. Các chính sách tôn giáo của nhà nước đang chú trọng việc kiểm soát hơn là để các tôn giáo tự do phát triển.

Nhà nước nên xét lại việc kiểm soát khắc nghiệt các tổ chức tôn giáo

Gần đây, khi tình hình dịch bệnh trở nên căng thẳng, nhà nước đã chính thức kêu gọi các tổ chức tôn giáo giúp đỡ. Đây là một lời mời hợp tác hiếm hoi. Chính sách tôn giáo bao năm qua của nhà nước đã luôn có sự dè chừng và nhằm mục tiêu siết chặt sự phát triển của các tôn giáo. Ở nhiều nơi, quyền tự do tôn giáo hoàn toàn bị đè bẹp.

Năm 2011, một báo cáo của Cơ quan Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) về dịch vụ xã hội cho biết do nhà nước nghi ngờ về động cơ và xu hướng chính trị của các tổ chức tôn giáo nên đã hạn chế họ tham gia cung cấp các dịch vụ xã hội đến người dân. [6]

Tháng 8/2020, sau 13 năm xin phép chính quyền, giáo xứ Lai Châu thuộc giáo phận Hưng Hóa (khu vực gồm 8 tỉnh Tây Bắc và một phần Hà Nội) mới được cấp tư cách pháp nhân.

Theo Tổng Giám mục trưởng giáo tỉnh Hà Nội Giuse Vũ Văn Thiên, giáo phận Hưng Hóa đã gặp rất nhiều khó khăn do các chính sách tôn giáo không nhất quán giữa các tỉnh. [7]

“Nơi thì dễ dàng, nơi thì khó khăn, nơi thì hạn chế, nơi thì kìm kẹp, nơi thì cán bộ tuyên bố vùng của chúng tôi là vùng trắng, tức là không có một tôn giáo nào”, Giám mục Vũ Văn Thiên cho biết.

Việc cấm hoạt động, không công nhận một số các tôn giáo từ sau năm 1975 như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo (đến cuối những năm 1990), Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Minh Sư, Baha’i (đến những năm 2000) đã khiến số tín đồ sụt giảm nghiêm trọng. Các số liệu của nhà nước cho thấy số tín đồ của 11 tôn giáo đã sụt giảm từ 50% đến 90% từ sau năm 1975. [8]

Các tổ chức tôn giáo hiện nay phải chịu sự kiểm soát khắc nghiệt từ nhà nước. Bạn có thể thấy điều này qua 3 vấn đề sau.

Thứ nhất, tổ chức tôn giáo muốn mở rộng, xây mới cơ sở tôn giáo phải được nhà nước cấp đất. Muốn có nhiều tu sĩ, tăng ni, tín đồ thì phải có đất đai để xây dựng cơ sở tôn giáo. Tuy nhiên, các tổ chức tôn giáo không được phép tự mua đất và xây dựng cơ sở tôn giáo của mình trên mảnh đất đó. [9] Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, từ năm 2008 đến tháng 11/2020, số cơ sở tôn giáo đã tăng thêm 5.801 cơ sở nhưng quỹ đất dành cho tôn giáo không tăng. [10]

Thứ nhì, nhà nước can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 và nghị định thi hành luật này buộc các tổ chức tôn giáo khi bổ nhiệm nhân sự, sửa đổi hiến chương, thay đổi địa điểm hoạt động, tổ chức đại hội, đào tạo chức sắc đều phải xin chính quyền cấp phép. [11] [12]

Thứ ba, các tổ chức tôn giáo khi tổ chức quyên góp phải báo cáo cho chính quyền chi tiết về cách thức, mục đích sử dụng, thời gian quyên góp. Các tổ chức tôn giáo vẫn chưa được phép thành lập tổ chức riêng để hoạt động bác ái, cung cấp dịch vụ xã hội. [13]

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng giới hạn sự đa dạng tôn giáo. Việt Nam là một trong các quốc gia hiếm hoi đặt ra định nghĩa hạn hẹp về tôn giáo, tín ngưỡng để ngăn chặn sự phát triển của các tôn giáo mới.

Trong đại dịch lần này hay các đợt khủng hoảng không thể biết trước trong tương lai, tôn giáo có thể trở thành một bàn tay vững chắc để trợ giúp, nâng đỡ tinh thần của người dân. Và điều đó chỉ thành hiện thực khi nhà nước tháo bỏ các chính sách kiểm soát khắc nghiệt dành cho các tổ chức tôn giáo.


Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.

Quảng Cáo
Bài Liên Hệ
Leave a Comment
Quảng Cáo
WordPress Appliance - Powered by TurnKey Linux