Nguyệt Quỳnh – Việt Tân
Tôi tin vào những điều không thể. Tưởng tượng bạn đang rất căm ghét một con người hay một con vật nào đó. Rồi bỗng dưng một ngày bạn thấy họ là chính mình. Bạn có cảm giác mình biết về họ rõ như biết về những đường chỉ trên bàn tay của mình. Thậm chí, bạn cảm được cái khát khao và thương nó như thương nỗi khát khao của mình ngày nào – đó là cái tình cảm lạ lùng mà tôi dành cho con chuột của con trai tôi.
Nó là con chuột nhỏ xíu, nhưng nó cho tôi nhiều xúc cảm chỉ trong vòng bốn tuần sống chung với nó. Thật ra, buổi đầu gặp nó tôi đã sợ chết khiếp! Nó nhắc tôi về những kỷ niệm xa xưa, những ngày còn làm việc ở một cửa hàng bách hóa ở Sài Gòn. Ngày ấy, chúng tôi vừa trải qua những ngày đói kém của năm 1977. Tội nghiệp giấc mơ hòa bình no ấm của người dân nước tôi! Sau chiến thắng là bắt đầu… “đói.”
Mà cứ hễ đói, cứ hễ nghèo là gần gũi với chuột, là phải sống chung với chuột. Khi ấy, đang làm việc tại một cửa hàng ở Chợ Bến Thành. Bữa ăn trưa nào của chúng tôi cũng bị chuột làm phiền. Bởi khi người đói thì chuột cũng đói. Nhưng khi chuột đói, nó táo tợn, nó chẳng sợ ai, nó chẳng coi con người ra cái thể thống gì. Nó núp đâu đó dưới gầm những tủ kính, chỉ chờ cơ hội là nó vụt chạy ra, chớp nhanh lấy miếng bún hoặc cơm ngay lúc chúng tôi đang ngồi ăn với nhau trên sàn.
Cô bạn làm chung là con nhà cán bộ nhưng lại yêu thơ Phùng Quán. Cứ mỗi lần như thế, sau những tiếng la rú thất thanh vì sợ hãi của chúng tôi, cô lại đọc câu thơ của Phùng Quán “những con chuột mặc áo quần bộ đội / đục cơm khoé áo chúng ta.” Ngẫm lại, tôi thấy tuy ngày ấy Phùng Quán ta thán là thế, nhưng đa số người Việt Nam vẫn muốn ôm ấp, vun vén cho mảnh đất nghèo khó này. Nay, mọi chuyện đã khác, lòng người cũng đã đổi thay. Mấy cái vụ “đục cơm khoét áo” xưa rồi. Ngày nay, người ta còn thẳng tay cướp đất, đục khoét cả tài nguyên đất nước rồi thản nhiên ôm của cải ra đi. Mặc cho lũ lụt, mặc cho xác dân trôi, mặc cho đất nước tan hoang, người ta có thể bỏ ra hàng triệu đô để mua quốc tịch ở đảo Sip, một đảo quốc xa xôi tận bên trời Âu!
- XEM THÊM: Đảo Síp nơi hạ cánh an toàn
Trở lại cái nhân duyên tôi gặp con chuột. Một hôm con trai tôi nảy ra ý định muốn nuôi một cặp chuột làm thú cưng. Cháu đang sống ở một nhà tập thể nên điều này là không thể và biết rõ luật ở đó cấm thế là cháu đành nuôi lén. Mọi chuyện vỡ lỡ khi một con chuột thoát ra ngoài. Nó bị vây bắt và bị giết chết. Đau lòng quá, con trai tôi nhất quyết bảo vệ con chuột còn lại. Và dĩ nhiên cháu và con chuột phải ra khỏi nhà. Suốt hai đêm cháu ở ngoài vườn sau của khu nhà tập thể, và phải thức trắng để canh gác cho sự an toàn của con chuột còn lại.
Khi tôi được gọi tới, cháu đã mệt mỏi lắm rồi, khẩn khoản xin mẹ đem con chuột về nhà để được ngủ. Không đành lòng, tôi nhận lời. Nhưng đến khi tôi trông thấy nó, đến khi con chuột ló đầu ra từ cái hộp giấy thì… không kiềm chế kịp, tôi kêu thét lên vì sợ hãi. Trời ơi! Nó không phải là con chuột bạch như tôi nghĩ, nó chính là cái giống chuột tôi vô cùng ghê sợ. Cái giống chuột vẫn ám ảnh tôi về những ngày vô định – những ngày của đói, lạnh và sợ hãi. Ngày ấy, nhiều gia đình trong xóm tôi bị lùa đi kinh tế mới đã lục đục trở về. Họ dựng lại chỗ ở trên cái nền nhà cũ đã bị phá tan hoang. Họ lợp tranh hay treo những tấm poncho cũ để che mưa chắn gió. Ở những ngôi nhà “ổ chuột” ấy, chuột nhiều vô kể. Tôi còn nhớ những ngày mù mưa, cơn đói, những hạt cơm, tiếng chuột rúc và bóng những con chuột chạy qua chạy lại trên cái nền nhà dựng tạm – đó là Sài Gòn trong ký ức tôi những ngày sau giải phóng:
Em theo mẹ về kết tranh lợp mái
Những ổ chuột những mặt người xanh tái
Những con chuột to sống lẫn với người
Ăn ngủ trên một nền nhà
Rúc buồn những ngày mưa gió
Em sống mà vẫn âu lo hoài chuyện đó
Cơm, gạo, bánh mì, bột bắp, bo bo, …
(Những ngày mưa – Hương Giang)
Thầm trách con, nhưng tôi vẫn đón lấy mảnh giấy ghi rõ cách chăm sóc con chuột từ tay cháu. Suốt hai ngày đầu tôi không dám nhìn đến nó. Đến ngày thứ ba, phải bỏ thức ăn cho nó tôi mới theo lời cháu, gọi nó bằng giọng nói khe khẽ, nhẹ nhàng. Thật lạ lùng, khi đã nghe quen giọng, mỗi lần tôi gọi, nó đều chạy đến. Chưa hết ghê sợ, bàn tay tôi vẫn để cách xa chiếc lồng một quãng ngắn. Tuy thế, tôi vẫn cảm nhận rằng nó tha thiết muốn để cái mỏ nhỏ xíu của nó lên những ngón tay tôi.
Cứ ba ngày, tôi lại dọn dẹp làm sạch chuồng cho nó. Lần nào cũng vậy, hễ thấy hộp thức ăn mới là nó lại cắn giấy báo tôi lót đáy chuồng, rồi phủ che lên trên thức ăn như sợ kẻ khác chia miếng ăn của nó; hễ thấy chuồng sạch là nó lại chạy vòng quanh, phóng uế khắp nơi như để xác định quyền làm chủ giang sơn của nó; sau cùng, nó loay hoay tha rơm phủ đầy lên chỗ ngủ của nó trước khi biến mất dưới đống rơm ấy. Trông nó lập đi lập lại mọi việc một cách thảnh thơi, vui tươi và an phận làm sao! Cho đến một ngày tôi lơ đãng để nó xổng chuồng.
Suốt một tuần, tôi không biết nó ở đâu? Nó có đói không? Có khát không? Tôi để đồ ăn và nước uống ở một vài góc khuất nhưng vẫn không nhìn thấy tăm hơi của nó. Rồi tôi quyết định mua những cái “bẫy an toàn” – loại bẫy dùng để bắt giữ nhưng không giết chết – để ở mỗi góc nhà hầu mong dụ dỗ được nó. Mãi cho đến tuần thứ hai tôi mới tìm thấy nó trong phòng ngủ của mình vào lúc 3 giờ sáng. Nó vẫn thế, nhưng mạnh mẽ và linh hoạt hơn nhiều. Tôi ngẩn ngơ nhìn nó vượt qua những chiếc bẫy một cách tài tình. Bắt được nó là cả một công trình, nhưng những gì xảy ra sau đó mới làm tôi mất ngủ.
Khi bỏ nó lại vào chuồng, tôi mới nhận thấy nó không còn là con chuột cũ. Vẫn chiếc chuồng ấy, nhưng nó chẳng còn màng đến giang sơn, đồ ăn hay thức uống của nó nữa. Nó khác hoàn toàn. Suốt từ nửa đêm cho đến sáng, nó không ngừng vùng vẫy để tìm cách thoát thân. Tôi nằm nghe tiếng quẫy đạp dữ dội không ngừng của nó mà thương cảm. Sao nó giống chúng ta thế! Nó cũng khao khát được vượt thoát. Nó làm tôi nhớ đến biến cố sụp đổ của hàng loạt các quốc gia theo chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu. Trước ngày 9/11/1989 không ai nghĩ rằng bức tường Bá Linh sẽ đổ. Ngay trong cái đêm đầy biến động đó, vượt qua cánh cửa vừa được mở, không phải hàng ngàn mà là hàng chục ngàn người đã tuần hành, đã đi bộ giữa mưa phùn tiến về Tây Bá Linh. Đó là những giòng sông người cuồn cuộn chảy về với tự do.
Con chuột của tôi đã vô tình nếm được mùi vị của tự do. Nó không còn yên tâm, an phận với nồi cơm, với tổ ấm của nó nữa, và con chuột nhỏ xíu mà khôn ngoan ấy đã không dễ gì mắc bẫy. Chúng ta cũng ngỡ mình như thế. Vậy mà, có những cái bẫy chết người, ta vẫn cứ lao đầu vào!
Từ lúc ấy cho tới sáng, tôi không chợp mắt được vì thương cái vật vã của con chuột trong lồng. Tôi chạnh nghĩ đến nỗi trăn trở của Robert Burns (nhà thơ lớn của dân tộc Tô Cách Lan) khi ông vô tình phá vỡ một ổ chuột trong lúc đang cày ruộng. Nhìn lũ chuột xôn xao chạy trốn, Burns thương cảm cho thân phận và thương cho căn nhà chung của chúng. Ông viết: “Ngôi nhà nhỏ của bạn cũng đang đổ nát! / Những bức tường yếu ớt của nó, gió đang tán loạn!”
Tuy hoàn cảnh lũ chuột của Burns khác xa con chuột của tôi, nhưng hai câu thơ của ông thì lại gần gũi với chúng ta đến ngậm ngùi. Người Việt Nam cũng đang chạy tán loạn ra khỏi ngôi nhà đổ nát của mình và họ ra đi bất chấp hiểm nguy, bất kể mạng sống. Hình ảnh chiếc xuồng cao su gặp nạn ngoài khơi vùng tây Flanders trên trang nhà của tòa Đại Sứ Bỉ lại ám ảnh tôi. Nếu không nhờ tuần duyên Bỉ giải cứu, có lẽ chúng ta lại thấy xác người Việt trôi nơi eo biển, trên con đường nhập lậu vào nước Anh.
Khao khát tự do, khao khát sống, khao khát thể hiện chính mình là điều con người luôn luôn hướng tới. Tôi yêu cái cách người mẹ đơn thân, Đinh Thị Thu Thủy giải thích trước toà về những phản biện của chị đối với các chính sách của nhà nước. Nó thật đơn giản nhưng mạnh mẽ: “Tôi làm điều đó vì tôi yêu con mình.” Bạn có yêu chính cuộc đời mình và các con mình không? Tôi tin người phụ nữ đó đang hành động cho mình, cho con trai mình và cho tự do.
Ngày nào quê hương không phải là nơi an toàn để sống, ngày nào người dân Việt Nam còn thờ ơ, ngày nào chúng ta không quan tâm, chúng ta chưa góp tay vào những thay đổi cần thiết cho xã hội – ngày ấy, những người trẻ sẽ còn tiếp tục ra đi. Tôi nghĩ về cái chết thương tâm của 39 người trẻ trên chiếc xe tải đông lạnh; tôi nghĩ đến đoạn đường bầm dập của cướp bóc, bạo hành, cưỡng hiếp và một tương lai vô định của họ nơi những vườn trồng cần sa. Những câu thơ của Robert Burns dành cho con chuột của ông chợt kéo về ray rứt. Nó ray rứt, nhức nhối như hình ảnh đơn độc của chiếc xuồng cao su, như giấc mơ mong manh vụt tắt khi chiếc xe tải dừng lại ở cổng thiên đường.
Nhưng chuột nhỏ ơi, mày không đơn độc,
Khi cho thấy lo xa có thể hão huyền
Bởi những toan tính hoàn hảo của chuột và người
Thường không đi đúng kế hoạch
và chúng ta không còn gì ngoài sầu muộn đớn đau
cho một niềm vui từng hứa hẹn…
(To A Mouse – Robert Burns)
Tôi yêu quí ”tự do” của chính mình và không dám bóp nát “tự do” của con chuột bé nhỏ ấy. Sợ bàn tay mình rướm máu vì Tự Do mãi mãi là đóa hồng đầy gai nhọn.
Trời sáng hẳn, tôi chuẩn bị một ít đồ ăn và nước uống rồi ôm cái lồng con chuột theo mình đến một công viên. Tôi cẩn thận tìm một gốc dừa an toàn nhất, nơi những tán lá dưới gốc đã khô cứng tạo thành một chỗ trú ẩn lý tưởng cho nó. Tôi đặt một ít thức ăn vào đó rồi mở cửa chuồng. Ngần ngừ một thoáng rồi con chuột của tôi cũng nhẹ nhàng leo ra. Chờ một lúc, tôi gọi nó khe khẽ. Nó ló đầu ra khỏi tán lá dừa nhìn tôi, rồi lại thụt đầu vào. Tôi nghĩ đến khuôn mặt son trẻ của Trà Mi, của Nhung, của Hà, của Lượng,… Tôi đã thương quý con chuột ấy lúc nào không biết, nhưng tôi tôn trọng chọn lựa của nó. Tôi nói thầm với nó lần cuối như một lời chia tay:
– Tự do nhé chuột ơi!
Nguyệt Quỳnh