Những ngày tháng 4, guồng máy tuyên truyền đang vận hành hết công suất về thắng lợi của “cuộc kháng chiến chống Mỹ” và thành tựu “cách mạng”, ông Nguyễn Minh Nhị con Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, nguyên chủ tịch tỉnh An Giang hé lộ Hồi Ký “Đã Đi Qua”, sau gần 50 năm đến “Bến Bờ Mong Đợi” nhìn lại cuộc đời mình và đất nước với nỗi đau thất vọng và niềm tin tan vỡ.
Nguyễn Minh Nhị (Bảy Nhị) cựu chủ tịch UBND tỉnh An Giang là một trong số rất ít những quan đầu tỉnh của Việt Nam làm ra chuyện ích nước lợi dân có thể cân đong đo đếm được. Sau hơn 10 năm làm Giám Đốc Sở Nông Nghiệp và non một nhiệm kỳ Chủ tịch, ông đã xây dựng lực lượng khuyến nông, mô hình bốn nhà nông, thương, khoa học, công nghiệp liên kết, tạo thêm một mùa lúa vụ ba đưa sản lượng lúa của An Giang từ 600.000 lên gần 3 triệu tấn/năm. Nhân giống và đưa cá Ba Sa ra thị trường thế giới. Xây dựng trường Đại học An Giang có tầm cỡ cho khu vực, biến mùa nước ngập nông nhàn thành mùa sản xuất, phục hồi và phát triển nhiều lễ hội văn hóa dân gian như đua bò, tết Khmer…phát triển du lịch…
Dám nói thật ngay thời đương chức
Về hưu đã hơn 15 năm, có cái ông làm đươc đã dần bị thui chột như Đại Học An Giang với mục tiêu ban đầu là đào tạo cán bộ kỹ thuật cho đồng ruộng với Hiệu Trưởng danh tiếng Võ Tòng Xuân và các chương trình hợp tác quốc tế phong phú có thời là trường Top của phía Nam. Ông Bảy Nhị về hưu, thầy Võ Tòng Xuân cũng rời đi, nay chừng như bị lẫn khuất trong mớ bòng bong của các Đại học Tỉnh lẻ. Con cá Ba Sa đặc sản của Mê Kông bị giới thương lái thiếu tâm, thiếu tầm hóa kiếp “Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt” thay dần bằng cá Tra nay gần như tuyệt chủng. Nhưng kinh tế nông nghiệp, du lịch lễ hội.. An Giang vẫn đang trên đà phát triển.
Đặc biệt, ngay thời đương chức, ông Bảy Nhị là quan chức cộng sản hiếm hoi trực tiếp viết báo. Không phải để tuyên truyền chính trị hay đánh bóng tên tuổi cá nhân, mà để phản biện, góp ý cho toàn xã hội những nhận thức, thậm chí là các chủ trương lệch lạc đang thịnh hành.
Vào những thập kỷ 1990 đến 2010, cái tên Nguyễn Minh Nhị đã thành bút danh uy tín, hấp dẫn trên một số tờ báo Sài Gòn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, SGTT… Ông không viết chính luận cao kỳ, không hoa mỹ, không õng ẹo mị dân về những lý thuyết sáo rỗng mà chia sẻ những trải nghiệm, nhận thức thật của bản thân. Ông không viết chính luận cao kỳ mà bình dị nói về những chuyện thật đã làm, cần làm, nói thật về những suy nghĩ thật của mình ngay cả những chuyện cực kỳ nhạy cảm. Nhưng những suy nghĩ ấy chính xác lúc đương thời và có khi dự báo trước hàng chục năm.
Khoảng đầu thập niên 2000, xã hội đương thời tràn ngập những thuật ngữ “chống lũ”, “cứu trợ lũ lụt” ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, xem mùa nước nổi ở Đồng Bằng như một thiên tai, ông viết bài “Nước vàng, nước bạc” khẳng định Đồng Bằng không có lũ mà chỉ có chế độ nước dâng, nước về, nước xuống theo chu kỳ hàng năm và nguồn nước ấy là tài nguyên vô giá của Đồng Bằng. Từ trải nghiệm thực tế ông đã tham mưu cho Thủ Tương Võ Văn Kiệt đào hệ thống kinh đưa luồng nước nặng phèn ra biển Tây và đón nước phù sa về Tứ Giác Long Xuyên. Cơn khát nước của Đồng Bằng hiện nay càng chứng thực cho quan điểm nước vàng, nước bạc của ông.
Trong khi hệ thống chính trị cầm quyền kiên định chính sách Hạn Điền qua Luật Đất Đai quy định mức bình quân đất sản xuất đầu người từng khu vực theo đơn vị m2 thì ông kêu gọi xây dựng mô thức tích tụ đất đai thành những cánh đồng mẫu lớn để đưa công nghiệp và khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp. Ý tưởng Cánh đồng mẫu lớn của ông có trước khái niệm kinh tế trang trại hàng chục năm.
Có nhà báo kể rằng, khi Nguyễn Tấn Dũng đươc bổ nhiệm làm Thủ Tướng, báo chí phía Nam hứng khởi có vị Thủ Tướng “dân mình” mặt mày sáng láng đã gọi điện đặt ông viết bài ca ngợi. Ông thẳng thắn, điềm tĩnh từ chối thật nhẹ nhàng: “Thấy vậy chứ không phải vậy đâu em! Lầm rồi”. Sau hai nhiệm kỳ Thủ Tướng, ông Dũng đã hiện nguyên hình là đồng chí X.
Viết theo khuyến khích của học giả Bùi Văn Nam Sơn
Chính từ sự chú ý ấy, tôi đã đọc và chiêm nghiệm hai quyển hồi ký của ông Nguyễn Minh Nhị. Không bàn sâu về nội dung và cũng nói trước rằng Hồi Ký của ông không có những bí mật cung đình như Đèn Cù của Trần Đỉnh hay Hoa Xuyên Tuyết, Mặt Thật của Bùi Tín. Không cay đắng như Làm Người Khó Lắm của Đoàn Duy Thành dù có không ít chi tiết làm người đọc bất ngờ như chuyện Thủ Tướng mãn đời Phạm Văn Đồng dặn dò đoàn cán bộ Miền Nam học trường đảng Trung ương là học thì học chứ đừng có về làm theo điều đã học. Hồi ký cũng bộc bạch nhiều sự thật đau lòng trong chiến tranh lẫn hòa bình những cán bộ nội tuyến đươc cài vào quân đội VNCH bị giết lầm đến nay vẫn chưa có chính sách hoặc giải oan. Những người dân trung lương thiện bị giết oan chỉ vì những nghi vấn vu vơ..,
Điều đáng bàn là sự trăn trở, cân nhắc của ông viết rồi dừng, viết cho ai, viết như thế nào và để làm gì trong hơn 10 năm. Cái trăn trở rất thật, và trên nền tảng ý tưởng, đạo lý khác với các nhân vật chính trị cộng sản khác.
Ngay khi ông còn chưa nghỉ hưu, nhà báo và nhà xuất bản đã đặt hàng ông viết Hồi Ký in thành sách bán, chắc hẳn vừa có tiền, vừa có tiếng, ông Bảy Nhị thẳng thừng từ chối. Nhưng khi có đứa cháu ngoại đầu tiên, ông muốn “để lại cho con, cháu cái vốn của cả cuộc đời vợ chồng tôi tạo ra, từ tư tưởng, tình cảm, tinh thần, mối quan hệ xã hội già cả của cải vật chất, tuy khiêm tốn nhưng lương thiện mà chúng tôi đã tạo dựng và phấn đấu trải qua, như người nông dân cần cù trên quê hương còn thuần nông, để làm người bình thường”.
Nhưng viết thế nào? Mất nhiều năm ông Bảy Nhị băn khoăn “Tôi lúng túng và lưỡng lự ở chỗ này: Viết kiểu văn học sử thì tôi không có khả năng. Viết kiểu lên gân “thành tích Cách mạng” thì tôi tối kỵ. Viết kiểu thể hiện “đạo đức khiêm tốn” của bản thân thì viết để làm gì? Viết sự thật trần trụi thì nói sao với thế hệ con cháu của chúng tôi – những người cùng thời có liên quan? Đặc biệt viết để tách mình ra khỏi những sai lầm của đường lối, thể chế từ sau 1975 mà mình chịu sự chi phối, bị lãnh đạo thì tôi không có tầm….”
Điều đáng nói là động lực cuối cùng thúc đẩy ông hoàn thành Hồi Ký là cuộc trò chuyện với học giả Bùi Văn Nam Sơn, một trí thức dịch giả triết học phi marxít hiếm hoi ở Việt Nam.
Ông lấy tên cho Hồi ký thật đơn giản như sự minh định về mục tiêu và phương thức viết.
Đã đi qua
Nhớ lại và suy nghĩ của Nguyễn Minh Nhị
Hồi ký gồm 2 tập: tập 1 Một mình suy nghĩ. Một mình đi*. Tập 2 Bến bờ mơ ước **
Giá trị Thiện-Ác
Ông sinh trưởng trong gia đình nông dân khẩn hoang ở An Giang đươc nuôi dưỡng và tưới tắm bằng những tình cảm, văn hóa đạo đức đặc trưng của người Nam Kỳ. Ba ông theo Việt Minh kháng Pháp. Sau 1954 về làm dân nhưng tin đảng đến mức sau nhiều lần tản cư đã dời nhà vào căn cứ. Mọi chuyện cả đến chuyện ứng xử trong gia đình ông cụ cũng hỏi ý kiến của cán bộ. Năm 1979 bệnh nặng tưởng sắp qua đời ông cụ mời cả Thường Vụ tỉnh ủy đến để dặn dò, ủy thác. Nhưng ông Bảy Nhị chỉ kế thừa của cha đức tính trung thực. Trung thực đến mức khi tập kết cán bộ Việt Minh gởi ông nuôi mấy con bò ông chăm sóc hết lòng nhưng khi chiến tranh nổ ra thấy không thể quán xuyến, bảo vệ tính mạng đàn bò ông phải lùa bò vào căn cứ trả lại. Khi đồng khởi nổ ra, ông nhiệt tình huống ứng đốt nhà trong ấp chiến lược để về quê cũ đốt luôn 10 giạ lúa mới thu hoạch. Chính quyền Ngô Đình Diệm yêu cầu kê khai thiệt hại để hổ trợ ông chỉ khai đúng 10 giạ…
Ông Bảy Nhị cũng kế thừa đươc từ người cha tình yêu quê hương xứ sở, yêu đến mức không nỡ đốn cây rừng để cất nhà mà tự trồng cây lấy gỗ hay kỹ năng làm nông rất giỏi, rất tinh tế mà sau này ông vận dụng trong quản lý. Nhưng về lối sống, những giá trị ông lại kế thừa từ bà má và lấy đó là phương châm sống.
Ông viết “Má tôi thường hát ru: “Người ta ba thứ người ta /Người hai tiền rưỡi /Người ba mươi đồng”. Vậy là có người không có giá, mà má tôi cho đó là “Phường giá áo túi cơm”.
Cái giá của con người nằm ở chỗ nào, dựa trên căn bản nào? Với ông Bảy Nhị đó không dựa trên thành tích, chức vụ, danh hiệu, tiền bạc như nhiều cán bộ khác theo tiêu chí của đảng mà nó rất dân gian xoay quanh hai chữ Thiện – Ác. Trong môt đoạn khác ông giải thích “Làm người không dễ! Bởi chất di truyền, hoàn cảnh sống và nỗ lực hành động của mỗi người phải có sự cộng hưởng hoặc xung khắc nhau để đi đến kết cục thắng thua giữa lằn ranh Thiện – Ác, khôn – dại, hoặc thành công hoặc thất bại. Cái ranh giới ấy suy cho cùng là cái giá làm người, cho dù người bình thường nhất”
“Rớt giá”, “chuyển giá” và “giá ảo”
Từ cái trục Thiện – Ác ấy, ông đã nhìn lại và đánh giá một cách buồn bã về bản thân và cái sự nghiệp mà cả đời ông đổ công vun đắp là “chuyển giá”, “lệch giá” và đau đớn nhất là “giá ảo”.
Ông viết “ .. Và tôi cũng tự thẩm định cho tôi, cho sự nghiệp mà tôi tận tụy để góp sức làm nên cái giá; nhưng khi ngọn cờ Giải phóng được treo lên Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975, thì Cách mạng đã chuyển hướng và “chuyển giá”, nói theo ngôn ngữ thế kỷ 21, mà mình không biết. Làm mãi không thấy vì “chuyển hướng” đã thành “lệch hướng” sai đường và “chuyển giá” thành “lệch giá” ra “giá ảo”. Vậy là tự làm rớt giá đang có. Rớt dần! Rớt dần so với thời đại và tụt hậu so với quá khứ của bản thân đất nước đã từng có, nhất là về văn hóa truyền thống dân 4 tộc và nền giáo dục quốc gia. Vốn xã hội cạn dần!”
Mới 14 tuổi đã theo Việt Công, đến cuối đời làm Chủ tịch tỉnh khá thành công, /nhiều cán bộ đảng khác luôn phởn phơ tự mãn về thành tích, chức vụ xem đó là thành công nhưng ông Bảy Nhị lại có cách nhìn khác. Khi nhận ra đã rơi vào cái giá ảo, ông cố gạn lọc thật khách quan khi viết và còn cẩn thận dặn dò người đọc Hồi Ký phải tinh táo gạn lọc thêm:
”Nhờ thời gian có độ lùi mà tôi có những chiêm nghiệm để không bị ngộ nhận; để hiểu gần đúng sự vật và sự thật hơn; gọi gần đúng tên những gì bị “thời sự hóa”, “chánh trị hóa”, “cách mạng hóa” và “thi vị hóa” ở thời của tôi như là tất nhiên mà thậm chí vẫn còn âm hưởng cho đến bây giờ. Âm hưởng đó vẫn tồn tại ngay trên những trang chữ nầy là điều không tránh khỏi. Ai đọc đều cần có sự gạn lọc cần thiết.
Nó như tường trình về cuộc đời tôi, không nhấn mạnh ở thời điểm nào, nhất là không lấy đoạn “cao trào” của sự nghiệp để tạo dấu ấn hay sự hấp dẫn người đọc. Tôi không muốn con cháu tôi đọc hiểu lầm quá khứ là “hào quang”, một thứ ánh sáng phía sau lưng chỉ làm chập chờn tầm mắt tài xế và người trong xe”.
Đặt niềm tin sai chỗ
Nhìn về quá khứ và thực tai, Nguyễn Phú Trọng ngây ngất tự hào về đảng quang vinh bách chiến bách thắng và anh bạn vàng 16 chữ làm cho mây đen đang bao phủ thế giới, mặt trời chói sáng ở Việt Nam. Ông Nguyễn Minh Nhị có cái nhìn hoàn toàn ngược lại, rất thực và đau đáu về sự tụt hậu của đất nước do chính sự bế tắc chính trị và lệ thuộc ngoại bang:
“Với gần 70 năm lịch sử quê hương đầy biến động mà vẫn không thoát khỏi “từ trường” của nước lớn, trong đó có 55 năm tôi dự phần, mà đáng lý nó chỉ cần 30 năm của “Đổi mới” vừa qua, như thời gian cần có của Hàn Quốc, đủ để thoát khỏi thân phận “tiểu nông” và “tiểu quốc” mà không được.
Theo dòng sự kiện, “lập trường ta – bạn – thù”, đúng sai, sai đúng… cũng có sự xáo trộn đến không ngờ. Có cái tôi đã nói, đã viết hoặc đã in, nay xem ra không đâu vào đâu mà không biết phải làm sao?
Nhưng nếu có “làm sao” thì cũng là dối trá! Vấn đề có ý nghĩa đặt ra là: Tại sao lại có sự đổi thay, đúng sai một cách rất cơ bản và rất nhanh vậy? Phải chăng như người đi đường khi mất phương hướng thì rối trí, loạn bước? Bản chất cuộc sống là đổi thay, đến loài cực nhỏ như vi trùng, vi- rút mà còn liên tục biến đổi để tồn tại và gây dịch bệnh. Tại sao con người không tự biến đổi cho thích hợp giới luật tiến hóa để tồn tại và phát triển hòa bình, lương thiện và hạnh phúc cho cả cộng đồng? Không có gì là bất biến muôn năm cả. Ai bất biến và không chấp nhận mâu thuẫn – khác biệt, là chống lại Mác!”
Nhận thức sâu sắc cuối đời của ông Bảy Nhị là niềm tin đỗ vỡ. Lý tưởng tốt đẹp mà ông đã theo đuổi chỉ là sự dối trá của nhóm cầm quyền. Những khẩu hiệu, những chủ trương tốt đẹp chỉ là bình phong tạo dựng quyền lực và quyền lợi cho những phe nhóm lợi ích cầm quyền còn đất nước và người dân mãi trong vòng vây đói nghèo, mất tự do.
“Nhưng cái không bình thường là tôi lại đặt niềm tin quá thánh thiện vào đồng chí và những gì các đồng chí mình nói! “Đổi mới”, tôi ngỡ là Đảng đã thật sự cầu thị, nên cả tin, nào ngờ lại là “Biện pháp tình thế” để phát triển “Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa” không phải tôi cá nhân công kích ai mà muốn nói lên một sự thật là ở đất nước ta và cơ chế ta, những chuyện như vậy là tất nhiên, nên Giải phóng rồi mà thiếu tự do, độc lập rồi phải ăn độn bo bo, hút thuốc bằng giấy vò. Đói! Đói đầu gối phải bò. Thế là Đổi mới!? Đổi mới 30 năm, hết mới rồi, mà chưa biết làm gì cho đất nước mới, trẻ, đi lên. Khoảng cách Việt Nam và các nước ASEAN vẫn không thay đổi. Khoảng cách đời sống vật chất bây giờ của tôi đã cách xa với tôi hơn 30 năm trước. Khoảng cách những người có quyền và có tiền với lớp người còn lại trong xã hội đang ngày càng rộng ra”
Mong ước xã hội lương thiện, tự do, dân chủ
Mong ước về tương lai của ông không phải là thiên đường cộng sản mà mong muốn cho thế hệ tương lai đươc sống tự do, lương thiện trong xã hội vị tha. “Cuộc đời tôi gắn bó với chế độ nầy từ trong bụng mẹ và khi chế độ nầy chỉ mới là trứng nước. Vợ tôi cũng vậy. Chúng tôi chỉ mong chế độ nầy tiếp tục tự đổi mới để con cháu tôi được sống làm người tự do, người lương thiện trong một xã hội vị tha, thượng tôn pháp luật, không như cha ông nó sống trong bao nhiêu ràng buộc, thật giả lẫn lộn. Nếu chúng tôi có được chia phần với chúng thì… cái kết có hậu là hạnh phúc cho cả cuộc đời chúng tôi.”
Hồi Ký khép lại bằng những lời cảm ơn rất chân thành của một người Việt Nam theo truyền thống giá trị đạo đức Việt Nam “Xin thành kính dâng lên Tổ Tiên và Đấng Sanh Thành, qua từng trang viết nầy với tất cả tấm lòng báo đáp. Trân trọng nhớ những người mà tôi không quên trong những trang viết. Xin thọ ơn Đời, đã cho tôi được nhiều hơn mất”
Bằng sự cân nhắc thận trọng sau nhiều năm và nhiều lần sửa chữa, ông Nguyễn Minh Nhị không hề nhắc đến đảng cộng sản mà ông đã tham gia phụng sự hơn 50 năm chắc chắn không phải là sự thiếu sót vô tình. Từng ấy thời gian sống trong guồng máy và từng ấy thời gian phản tỉnh, chiêm nghiệm chắc hẳn đã cho ông bài học về cách sống, cách nói và làm trong chế độ cộng sản. Thập niên 1990, An Giang đã đi đầu trong việc trả ruộng đất lại cho nông dân bằng Quyết Định 303 cụ thể hóa chủ trương của Tỉnh Ủy lách Chỉ thị 47 của Ban Bí thư là “Bảo vệ thành quả trang trải ruộng đất và cải tạo nông nghiệp”. Quyết định này không có câu chữ nào nói trả lại ruộng đất mà chỉ là hướng dẫn cho người dân thương lượng.
Không ồn ào tuyên bố ra đảng như nhiều cán bộ lão thành khác nhưng nội dung đánh giá kết quả 70 năm cách mạng và những khát vọng tự do, dân chủ lời cảm ơn những người dân và bậc sinh thành không nhắc gì tới đảng, qua Hồi Ký này ông Nguyễn Minh Nhị đã chuyển thông điệp bất thành văn cho thế hệ trẻ hảy đoạn tuyệt với sự giả trá, mị dân và bế tắc của chế độ độc tài công sản và hướng tới nền chính trị tự do dân chủ.
***
*http:/www.viet-studies.net/kinhte/NguyenMinhNhi_ChuyenDoiToi_I.pdf
**http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenMinhNhi_ChuyenDoiToi_II.pdf