Suy đoán vô tội ở Việt Nam: Từ cộng hòa đến cộng sản

Bà Nguyễn Thị Loan (mẹ tử tù Hồ Duy Hải) đã khóc ngất trước cổng tòa án khi nghe thông tin về phán quyết phiên xử Giám đốc thẩm. Ảnh: báo Người lao động
- Quảng Cáo -

Phiên tòa xét xử giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải với tất cả những diễn biến xung quanh nó đã bóc trần những hủ bại của nền tư pháp hình sự Việt Nam.

Từ xung đột lợi ích trong lựa chọn thẩm phán đến hình thức biểu quyết kết án không đảm bảo khách quan. Từ ‘trọng cung hơn trọng chứng’ đến sự vắng bóng của nguyên tắc suy đoán vô tội.

Tất cả xuất hiện trong một phiên xét xử của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao – cơ quan mà như tên gọi của nó có quyền lực cao nhất đất nước về tư pháp, không khỏi khiến công chúng bàng hoàng.

Phiên xử lại còn diễn ra đúng vào dịp 15 năm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp quốc gia đầy tham vọng của đảng cầm quyền, đặt nghi ngờ về tính hiệu quả của chương trình này.

- Quảng Cáo -

Đã có nhiều lời kêu gọi cải cách. Song, câu hỏi đặt ra là cải cách từ đâu?

Từ việc củng cố nguyên tắc suy đoán vô tội – trái tim của một nền tư pháp hình sự vì con người.

Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, nghĩa là không quá nhạy cảm đối với đảng cầm quyền nếu so với việc cải cách thể chế (mối quan hệ giữa tòa án và các bộ phận khác trong hệ thống quyền lực) hay tổ chức bộ máy.

Bộ Luật Hình sự Tố tụng 1972 (Bộ Luật 1972) của Việt Nam Cộng Hòa có thể cung cấp những gợi ý quan trọng và đáng tham khảo cho việc củng cố nguyên tắc này.

Chẳng hạn, Tòa Đại hình (xử án hình sự nghiêm trọng) theo Bộ Luật bao gồm 7 thành viên (01 chánh thẩm, 02 phụ thẩm thẩm phán và 04 phụ thẩm nhân dân) và phán quyết chỉ được thông qua khi hội đủ từ 5/7 phiếu trở lên. Phiếu trắng hoặc vô hiệu thì được coi là phiếu có lợi cho bị can.

Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (Bộ Luật 2015) hiện nay lại quy định tòa hình sự xử án có mức hình phạt lên đến chung thân hoặc tử hình có thành phần 2 thẩm phán và 3 hội thẩm nhân dân. Biểu quyết theo đa số, nghĩa là chỉ cần từ 3/5 phiếu trở lên. Không có quy định về phiếu trắng hay phiếu vô hiệu được tính là phiếu có lợi cho bị can.

Thêm nữa, Bộ Luật 1972 quy định rất rõ hình thức biểu quyết là bằng phiếu kín, nhiều lần nhấn mạnh tính chất kín đáo của việc bỏ phiếu nhằm đảm bảo tính khách quan, tránh được việc các thẩm phán, vốn được cho là có hiểu biết pháp luật hơn, ảnh hưởng lên phụ thẩm nhân dân.

Trong khi đó Bộ Luật 2015 lại không quy định hình thức biểu quyết bản án, để ngỏ khả năng thẩm phán có thể ảnh hưởng lên hội thẩm nhân dân. Hoặc phiên xử giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải vừa rồi cho thấy việc biểu quyết bằng cách giơ tay hoàn toàn không đảm bảo tính khách quan khi mà 16 thành viên đều là cấp dưới cả trong bộ máy tòa án lẫn trong chi bộ đảng của chánh án/bí thư Nguyễn Hòa Bình.

Một điểm khác cũng rất quan trọng là câu hỏi trung tâm của cuộc nghị án. Theo Bộ Luật 1972 các thành viên tòa đại hình phải trả lời câu hỏi: “Bị cáo có phạm tội đã ghi trong phúc quyết phòng luận tội (cáo trạng) hay không?” Trong khi đó, câu hỏi chính khi nghị án theo quy định của Bộ Luật 2015 hiện nay là: “Có hay không có căn cứ kết tội bị cáo?”

“Có căn cứ kết tội không?” khác với “có tội hay không?”. Người ta sẽ dè dặt với câu hỏi sau hơn rất nhiều và chỉ một nghi ngờ hợp lý có thể khiến họ trả lời Không hoặc bỏ phiếu trắng. Trong khi đó, không có chỗ cho nghi ngờ hợp lý khi trả lời câu hỏi đầu, vì chỉ cần một dấu hiệu có tội là đủ để trả lời Có.

Tóm lại, chỉ điểm qua vài khía cạnh đã thấy Bộ Luật 1972 đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội hơn nhiều so với Bộ luật 2015, và có thể được tham khảo cho việc củng cố nguyên tắc này trong nền tư pháp hình sự Việt Nam hiện nay.

- Quảng Cáo -

Chúng Tôi Mong Có Góp Ý Kiến Thêm Từ Quý Vị

Please enter your comment!
Please enter your name here