Toàn cầu hóa là một mối quan hệ phức tạp, mỗi quốc gia muốn phát triển thì không thể nào đứng ngoài quy luật này được. Ngày trước, khi chưa toàn cầu hóa thì trong một quốc gia thường có đủ các ngành nghề từ thượng vàng đến hạ cám: có ngành dùng công nghệ sạch, có ngành dùng công nghệ bẩn; có ngành dùng chất xám có ngành dùng chân tay nặng nhọc; có ngành làm ra giá trị gia tăng cao, có ngành làm ra giá trị gia tăng thấp vv.. Thế rồi toàn cầu hóa xảy ra, những nước giàu chọn giữ lại những món ngon cho mình và đẩy những món dở sang các nước nghèo như là quy luật tất yếu.
Ngày nay, những nước giàu chỉ giữ lại những ngành nào vừa có công nghệ sạch, vừa làm ra giá trị gia tăng cao, vừa sử dụng chất xám nhiều. Khi các nước giàu giữ lại những thứ đó, thì nền kinh tế của họ sản sinh ra giá trị gia tăng rất cao dù cho thời gian lao động có ít đi. Ở các nước Bắc Âu và một số nước Tây Âu, nơi mà sự phát triển đã đạt trình độ rất cao thì họ bắt đầu giảm giờ làm cho người lao động nhưng của cải xã hội vẫn cứ dư thừa và dân vẫn cứ giàu có. Nếu tôi dùng 1 đồng vốn nhưng làm ra đến 10 đồng lời trong 1 ngày thì tôi có quyền làm việc 4 ngày trong tuần, còn 3 ngày chơi để xài tiền. Thế nhưng nếu tôi dùng 1 đồng vốn nhưng chỉ nặn ra có 2 xu tiền lời mà cần đến những 2 làm việc, thì ắt tôi phải cày bất kể ngày đêm mới đủ sống. Rõ ràng nhờ toàn cầu hóa, nước giàu giữ lại những gì sinh lợi lớn nhất và sạch nhất cho mình nên mới có chuyện dân xứ họ làm ít, nghỉ nhiều nhưng vẫn rất giàu có là vậy.
Hàng hóa của Thụy Sỹ tuy không phổ cập như hàng Nhật hay hàng Hàn, nhưng giá trị kinh tế của nó thì rất cao. Đồng Hồ Thụy Sỹ, cáp treo Thụy Sũy, máy trắc đạt Thụy Sỹ vv.. đều là những thứ đỉnh về chất lượng và tất nhiên, giá tiền thì cũng trên mây. Chính vì thế dân Thụy Sỹ sống rất nhàn, làm việc ít đi nhưng lại rất giàu có. Điều đó kéo theo nguồn thu của chính phủ cũng dồi dào đến nỗi chi không hết, mặc dù chính phủ của họ chi cho an sinh xã hội rất lớn.
Nói cho cùng toàn cầu hóa là một bàn tiệc, món ngon có, món dở có nhưng không sắp xếp hỗn độn mà nó phân tầng rất rõ ràng. Ở đáy của toàn cầu, Việt Nam chỉ nhận được những thứ công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi sinh, sử dụng cơ bắp nhiều và ít chất xám. Tất nhiên, những thứ đó làm ra giá trị gia tăng rất thấp và để lại hậu quả môi sinh, hậu quả xã hội. Chính vì thế mà người Việt Nam làm nhiều như tăng giờ, tăng ca khắp nơi và trong mọi ngành nghề, thế nhưng cuối cùng dân vẫn nghèo. Xã hội nghèo, dân chúng nghèo, đất nước nghèo. Ở Việt Nam, hầu hết là phải chiến đấu để tồn tại, chỉ có thành phần rất nhỏ ăn trên đầu trên cổ dân bằng cách dùng quyền lực hoặc dựa hơi quyền lực là sống để hưởng thụ mà thôi. Đó là thành phần đỏ.
Toàn cầu hóa nó giúp cho các doanh nghiệp ở nước giàu có thể mang cơ sở sản xuất của mình đặt ở vị trí nào mà tiết kiệm chi phí nhất rồi xuất khẩu nó sang các thị trường cao cấp bán giá cao. Từ đó các doanh nghiệp các nước giàu kiếm lợi lớn nhất có thể. Nguồn thu nhập lớn đó chắc chắn thuộc sở hữu của nước giàu nhưng lại được tính vào GDP nước nghèo. Thật sự, ai mà nghĩ ra trò tính chỉ số GDP cũng hiểm thật, nó cho những nước nghèo ngửi được mùi cá rán nhưng lại cảm thấy hạnh phúc, cảm thấy mình thành công, mặc dù phần thịt cá thì bị các nước giàu đớp. Như ta biết, FDI chỉ chiếm 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam nhưng lại chiếm đến 70% tổng giá trị xuất khẩu. 70% xuất khẩu là phần thịt cá rán, còn con số 70% ấy được tính vào GDP của Việt Nam chỉ là mùi thơm con cá rán đó mà thôi. Trong 70% hàng xuất khẩu ấy, chính phủ Việt Nam cũng thu được một khoản thuế, ấy là cái xương cá. Chính cái mùi và phần xương ấy làm nên 7% tăng trưởng. Thế nhưng thằng nghèo vẫn vênh mặt tự hào về “thành quả” vĩ đại.
Thu nhập trung bình thế gới năm 1985 là 2.647 USD còn Việt Nam là 231 USD, như vậy năm 1985 thế giới cách ta 2.316 USD. Đến năm 1995, mức trung bình thế giới là 5.409 USD, còn Việt Nam là 238 USD, vậy thế giới cách ta là 5.171 USD. Và đến năm 2015, mức trung bình thế giới là 10.224 USD, còn của Việt Nam là 2.085 USD, vậy thế giới cách ta là 8.139 USD. Như vậy qua đây chúng ta thấy, toàn cầu hóa được ví như một cây thang thẳng đứng và có 3 tốp đang leo: tốp dẫn đầu; tốp giữa; và tốp cuối. Vị trí thực của Việt Nam là tốp cuối và ở phần cuối của tốp cuối thì đúng hơn. Để phát triển đất nước thì ĐCS cần phải đưa đất nước rút ngắn khoảng cách với tốp giữa, thế nhưng thảm hại thay, Việt Nam dù cố hết sức vẫn không những không rút ngắn được khoảng cách mà còn bị nhóm này bỏ xa. Vậy thì đường nào để cho Việt Nam phát triển đây? Bí đường, nếu vẫn lối leo trèo kiểu CS hiện nay.
Toàn cầu hóa là quá trình liên kết thế giới thành một mạng lưới để tất cả đều tham gia vào và hưởng lợi, cùng win-win. Thế nhưng trong thực chất của cái win-win đó, thằng giàu sẽ hốt phần win 99%, còn thằng nghèo thì gặm phần win 1% ít ỏi. Có còn hơn không, phần win 1% ấy cũng đủ cho dân Việt Nam hôm nay khá hơn hôm qua và ngày mai khá hơn hôm nay. Chính cái 1% đó đã giúp ĐCS lừa gạt dân rằng “nhờ đảng mà hôm nay mới có gạo ăn, chứ không thì chúng mầy ăn bo bo, thế nhưng “nhờ ai” mà dân mới phải ăn bo bo thì đảng ém. ĐCS chỉ cần thế, chỉ cần cái win 1% kia để đảng duy trì sự cai trị, còn sự tụt hậu thì đảng không cần quan tâm.
Năm 2004 nắm được cái win 1% ấy, ĐCS họp bàn và hoan hỉ đặt ra mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ bắt kịp nhóm đang nắm win 99% kia. Thế rồi đến năm 2020 không những không bắt kịp mà bị người ta bỏ xa vời vợi. Ngạo mạn, không tự lượng giá được năng lực và cuối cùng là dẫn đất nước hướng tới mục tiêu thất bại. Ngày nay ông Trần Quốc Vượn(g) cũng là mẫu người vậy. Nói thật, ĐCS đưa Trần Quốc Vượn(g) lên ngôi là cách mà ĐCS đang tự dẫm vào bãi phân của chính mình. Thật sự với hế hệ tiếp theo của ĐCS, Việt Nam sẽ chẳng có gì sáng sủa./.
-Đỗ Ngà-