Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân
Giữa lúc dịch viêm phổi Vũ Hán bùng phát khắp nơi và đe dọa sự sống của nhân loại, đảng CSVN tổ chức lễ kỷ niệm 90 năm ngày thành lập vào ngày 3 tháng Hai, 2020. Đối với những người cộng sản còn gắn chặt trong bộ máy cầm quyền, đây là cái mốc nói lên sự tồn tại “đáng tự hào” của một trong những đảng bolshevik cuối cùng trên thế giới.
Với sự tự hào kéo dài tuổi thọ 90 năm đó, Tiến sĩ xây dựng đảng Nguyễn Phú Trọng, đương kiêm Tổng bí thư đảng đã có một phát biểu gây “sốc” trong dư luận vì nó toát lên sự cao ngạo đầy lố bịch: “Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài đảng Cộng Sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.”
Nếu như lời phát biểu nói trên từ một người nào khác, dư luận không mấy chú ý. Nhưng phát biểu từ miệng của một kẻ đứng đầu đảng, đang nắm trong tay quyền lực độc tôn trên đất nước Việt Nam bằng thủ đoạn “điều 4 hiến pháp” thì chỉ nói lên sự trơ trẽn của kẻ lãnh đạo.
Điều 4 ấy viết rằng: “Đảng Cộng Sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.”
Những lời lẽ dông dài ấy thực ra không nêu lên được một phương pháp giải quyết vấn đề của dân tộc, mà chỉ nhằm biện minh cho một điều duy nhất: đảng CSVN “là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Nói khác đi ngay trong văn bản pháp luật cao nhất, đảng đã giành về mình vị trí độc tôn, không ai có thể thay thế.
Tự cho mình có đầy đủ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng lãnh đạo rồi tự ban cho mình quyền lực cai trị đất nước suốt đời, trong khi ấy lại rêu rao “không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài đảng Cộng Sản Việt Nam”… thật là lố bịch. Sự mâu thuẫn ấy biểu lộ một tâm trạng tiềm ẩn nỗi lo sợ và không hoàn toàn tin tưởng vào chính khả năng của mình, khi nhìn lại diễn tiến đào thải của các trào lưu tư tưởng trên thế giới trong đó có trào lưu cộng sản, bị từ bỏ ở ngay chính cái nôi mà nó phát triển.
Là một tập hợp của những kẻ thừa sự huênh hoang nhưng thiếu khả năng lãnh đạo và qui tụ quần chúng, Đảng Cộng Sản Việt Nam lại phủ nhận tuyệt đối vai trò dân chủ nên sẽ không trụ được trong giòng chảy thay đổi theo chiều hướng tất yếu của thời đại: trả lại quyền dân.
Nếu xét trong thực tế, 90 năm nằm dưới “sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt”, nhân dân Việt Nam đã được gì?
Trước hết, trong 3 cuộc chiến tranh mà họ rêu rao là đánh Pháp, đánh Nhật, đánh Mỹ để giành độc lập cho đến nay ai cũng nhìn thấy rõ đó là sự cướp công của toàn dân. Nói cách khác, những người lãnh đạo Mác-xít Việt Nam đã sử dụng chiêu bài độc lập để khoả lấp bóng đen của chủ nghĩa cộng sản quốc tế mà đảng là tên lính xung kích ở Á Châu.
Với tên lính xung kích đó, sau khi chiếm xong miền Nam sau năm 1975, họ tiếp tục mang chiến tranh sang Campuchia và Lào để khống chế hai nước này phải nằm trong Liên bang Đông Dương hầu giúp cho lãnh đạo Bắc Việt từng bước nhuộm đỏ các quốc gia Đông Nam Á. Chính tham vọng của tên xung kích này mà hàng triệu thanh niên, sinh lực xây dựng đất nước, bị thiêu đốt trong lò lửa chiến tranh càng làm cho niềm tự hào của đảng trở thành sự ô nhục.
Thứ hai, những năm đầu cầm quyền ở Miền Bắc, đảng đã thực hiện cuộc Cải cách ruộng đất trong những năm 1953-1956, được nói là nhằm quân phân ruộng đất nông thôn, xoá bỏ giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân. Nhưng mục tiêu tốt đẹp ấy chỉ để che giấu ý đồ đấu tranh giai cấp, tiêu diệt triệt để các thành phần “phản quốc” còn sót lại sau Hiệp định Genève, dưới sự giám sát của cố vấn Trung Quốc. Cuộc cải cách ruộng đất ấy cuối cùng đã giết chết hàng chục ngàn nông dân lương thiện bị gán tội “địa chủ bóc lột”, chỉ vì mỗi xã phải đạt chỉ tiêu 5% địa chủ theo mô hình Trung Quốc.
Cho đến ngày nay, với tốc độ xây dựng lan tràn trên cả nước, và lợi nhuận khổng lồ do đất đai mang lại, đất đai thực sự đã trở thành mục tiêu chiếm hữu của các đại gia đỏ và sân sau của các lãnh đạo đảng và nhà nước. Với sự tiếp tay đắc lực của cán bộ chính quyền các cấp, vấn đề đất đai đã làm đảo lộn đời sống xã hội, tạo ra một thành phần dân chúng gọi là “dân oan”, những công dân bị mất đất vào tay các nhóm lợi ích.
Thứ ba, nếu cho rằng “đảng lãnh đạo sáng suốt” thì làm sao chứng minh được sự sai lầm lớn lao khi sau 1975, bê nguyên mô hình kinh tế chỉ huy vào Miền Nam, áp dụng chung cho cả nước. Và vỗ tay reo mừng khi đạp đổ được những mầm mống tốt đẹp mới vươn lên của kinh tế thị trường, đồng thời tạo ra sự hỗn loạn trong đời sống kinh tế, xã hội.
Cái kết quả to lớn nhất của đảng sau 90 năm cầm quyền có lẽ là 6 chữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” mà mỗi lần làm bất cứ thứ đơn từ gì đều phải để lên đầu, như một thứ chân lý sáng ngời và quý giá. Nó nhắc nhở mọi người “công lao” mà đảng đã mang lại cho nhân dân sau những tháng năm bị dìm trong máu lửa.
Nhưng so với những gì đang diễn ra ngày hôm nay thì ý nghĩa của hai chữ “độc lập” đứng đầu, đã trở nên rất mỉa mai một cách đáng hổ thẹn. Vì lẽ ngày nay sau 90 năm, chủ quyền đất nước hầu như nằm trong tay ngoại bang. Sự phụ thuộc về chính trị của Việt Nam đối với Trung Quốc có thể ví như một tiểu quốc chư hầu đối với thiên triều mà số phận không thể thay đổi. Những ví dụ về sự mất chủ quyền đất nước trên đất liền cũng như ngoài Biển Đông có thể kể ra nhiều trang giấy và mọi người đều biết.
Mãi cho đến sau này, những lãnh đạo cộng sản vẫn chưa chịu nhận ra một điều: ngay từ đầu, trong bối cảnh cạnh tranh chính trị, kinh tế, quân sự giữa Tây phương và Liên Xô, họ đã chọn chủ nghĩa cộng sản làm ngọn cờ để giải quyết vấn đề dân tộc là một sự sai lầm lớn lao. Sai lầm ấy, dựa vào Liên Xô và Trung Quốc, đã đưa đẩy dân tộc Việt Nam vào những biến động chưa từng có, cuối cùng triệt tiêu mọi đề kháng trước kẻ thù hung hăng Trung Quốc như ngày nay.
Sai lầm vì giữa thế kỷ 19, lý thuyết cộng sản ra đời khi quan hệ sản xuất thay đổi sâu sắc trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản phát triển trong các quốc gia Tây phương. Mâu thuẫn giai cấp mà Marx đề cập cũng xuất hiện trong thời kỳ này, làm tiền đề cho những cuộc đấu tranh thợ thuyền trong xã hội Tây phương. Cho nên chủ nghĩa cộng sản lúc bấy giờ có thể là liều thuốc hữu hiệu cho xã hội Tây Phương, nhưng không hề là thần dược để giải quyết vấn đề Việt Nam hay thế giới.
Với nền sản xuất nông nghiệp còn thô sơ, đại đa số là nông dân trong khi kinh tế công nghiệp còn phôi thai, giai cấp công nhân Việt Nam hãy còn nằm trong lý thuyết mơ hồ, hay chỉ mới là ý chí áp đặt của những người cộng sản sáng lập đảng đầu tiên.
Do đó, cuộc đấu tranh giai cấp gượng ép mà đảng CSVN gán lên đầu nhân dân Việt Nam chẳng những không mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự cho người dân mà còn đẩy Việt Nam vào cuộc tương tàn đầy hận thù, còn di luỵ tới ngày nay. Nhưng quan trọng hơn hết, nó còn mở đường cho thảm hoạ Bắc Thuộc thêm một lần nữa, trong khi đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn là kẻ thủ lợi trên sự lầm than của dân tộc.
Để che giấu những thất bại trước niềm tin ngày càng sa sút của người dân, đảng CSVN chỉ còn biết bám víu vào những lời lẽ khoa trương hoa mỹ về những thành tựu của thời kỳ gọi là đổi mới. Nhưng thật ra, mọi người đều thấy đó là những thành tựu của kinh tế thị trường mà không hề có bóng dáng của xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên theo tường thuật của báo chí, để động viên chính mình và động viên những đảng viên có mặt trong buổi lễ, ông Nguyễn Phú Trọng cũng kết thúc bài diễn văn của mình bằng cách hô to: “Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm!”
Kết luận lại, chừng nào mà đảng CSVN chưa nhận ra sai lầm của mình để mạnh dạn từ bỏ lý thuyết cộng sản như các quốc gia Đông Âu đã làm, thì ngày đó đất nước còn chìm đắm trong thảm hoạ nô lệ.
90 năm có đảng đồng nghĩa với 90 năm đảng có tất cả từ quyền lực đến tiền bạc, danh vọng. Còn nhân dân Việt Nam thì mất tất cả, không độc lập, thiếu tự do và hạnh phúc cũng chưa bao giờ vói tới.
Phạm Nhật Bình