Quân đội Việt Nam hiện nay có 415 sỹ quan cấp tướng với 455 ngàn binh sĩ và chi tiêu quốc phòng là 5,5 tỷ đô. Hoa Kỳ có 231 tướng với 1,772 triệu binh sĩ và chi tiêu quốc phòng là 649 tỷ đô. Có thể nói, số sĩ quan cấp tướng trong quân đội Việt Nam quá đông. Nếu chất lượng sĩ quan cấp tướng Việt Nam như Mỹ thì chỉ cần 60 tướng là đủ.
Điều này cho thấy số sỹ quan cấp tướng vô dụng trong quân đội Việt Nam chiếm một số lượng rất lớn. Năm 1975 khi đó Việt Nam đang ở thời kỳ chiến tranh thì số sĩ quan cấp tướng chỉ có 39 nhưng nay không có chiến tranh số sĩ quan cấp tướng đã tăng lên 13 lần. Vậy câu hỏi đặt ra là, những tướng lãnh vô dụng tồn tại trong quân đội Việt Nam để làm gì mà đông như vậy? Câu trả lời là họ tồn tại để làm giàu. Bởi vì ngày nay quân đội được phép làm kinh tế, mà lãnh vực quốc phòng là thánh địa riêng mà ngành tư pháp và công an không có quyền đụng đến. Như chúng ta biết, hầu hết những tướng hèn đều tham lam và ích kỷ, chính vì thế mà loại tướng này chỉ lo vơ vét làm giàu trong lãnh địa mà luật pháp không thể sợ tới như quân đội mà thôi. Mà tướng càng giàu thì ngân sách quốc phòng càng teo, đó là cái hại thứ nhất, cái hại quân đội mất mát ngân sách.
Vậy còn cái hại thứ 2 là gì? Cái hại thứ 2 là những nỗ lực của các tướng hùng tướng giỏi đều trở nên vô dụng, vì thế mà quân đội yếu về mặt tinh thần. 1 tướng hùng có thể làm cho vạn quân khí thế ngất trời, nhưng trăm tướng hèn thì chỉ làm cho vạn quân nhụt chí mà thôi. Nghĩa là nếu muốn xây dựng quan đội thì chỉ cần tướng ít mà giỏi và hùng còn hơn vô số tướng mà hèn và tham. Để quân đội vững mạnh phải loại hết tướng hèn. Cho nên với quân đội Việt Nam chỉ cần 60 tướng hùng là đủ, còn nếu với 415 tướng mà có đến 355 tướng hèn thì quân đội trở nên nhu nhược. Vì sao? Vì đơn giản, công lao của 60 tướng kia sẽ bị 355 tướng hèn phá sạch. Đã hèn thì không được làm tướng, mà làm tướng thì không được hèn thì quân đội mới mạnh. Còn để kẻ hèn đeo lon tướng tràn lan thì quân đội Việt Nam hiện nay thì điều đó xem như quân đội bại trước khi tác chiến. Chính vì thế mới có hiện tượng hải quân bám bờ xúi ngư dân mang cờ ra khơi làm bia tập bắn cho quân giặc.
Như vậy qua đây chúng ta thấy, quân đội Việt Nam có quá nhiều tướng hèn và tham thì kết quả ngân sách quốc phòng bị gặm nhấm và quân sĩ nhụt chí mất sức chiến đấu. Trong lịch sử, khi đất nước đứng trước nguy cơ chiến tranh thì trong triều đình luôn bị chia rẽ thành 2 phe, quan văn thường chủ hòa, quan võ thường chủ chiến. Nhà vua đứng giữa chọn hòa hay chiến là tùy vào bản lĩnh của người đứng đầu nhà nước. Thế nhưng đất nước Việt Nam hiện nay thì lại bệ rạc hơn thế, gần như toàn bộ quan võ đều chủ bại. Chủ bại còn tệ hơn cả chủ hòa. Thân phận kẻ cầm súng vệ quốc mà chủ động buông súng đầu hàng trước khi kẻ thù đến thì xem như vứt.
Lại nói về sự khác nhau về tư tưởng chủ hòa và tư tưởng chủ bại. Chủ hòa là ưu tiên cho đấu tranh bằng chính trị và ngoại giao để tránh chiến tranh. Còn chủ bại là không đấu tranh mặt trận nào cả. Ngoại giao thì tỏ thái độ khiếp sợ trước quân giặc, chính trị cũng tỏ ra thái độ khiếp nhược, và quân sự thì cũng tỏ thái độ khiếp nhược. Thực tế hiện nay, ĐCS đang chủ bại trên mọi mặt trận chứ không phải chủ hòa, mọi người chớ nhầm lẫn.
Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam không cần phải đầu tư quân sự quá nhiều để đối phó với Lào và Campuchia, chuyện đối phó 2 nước nhỏ này không là vấn đề bận tâm của quốc phòng Việt Nam. Vấn đề của quân đội Việt Nam cho dù là thời nào, thì mục đích của nó là làm sao để có thể phòng vệ trước sự đe dọa của Trung Quốc mà thôi. Khi quốc phòng không làm được việc này thì xem như nguy cơ mất nước rất cao.
Xây dựng quân đội vững mạnh không có nghĩa là phải chiến tranh. Chiến tranh vệ quốc là trường hợp bất khả kháng khi không còn lựa chọn nào khác. Quốc phòng vững mạnh thì tiếng nói trên mặt trận ngoại giao mới mạnh, quốc phòng mạnh thì tiếng nói của lãnh đạo mới mạnh, và quốc phòng mạnh thì tiếng nói của tướng lãnh mới mạnh, vì khi quân đội mạnh thì không thể có sân chơi cho các tướng hèn múa gậy vườn hoang. Nói chung quốc phòng vững mạnh là để củng cố sức mạnh trên các mặt trận khác. Nếu sức mạnh về ngoại giao có, sức mạnh về chính trị có thì chính nó sẽ giúp đất nước vừa không lùi bước vừa tránh chiến tranh.
Khi Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao hèn đến mức không dám nhắc tến Trung Quốc trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, rồi Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam không dám tỏ thái độ khi người đồng cấp phía Trung Quốc tuyên bố lãnh hải nước mình thuộc chủ quyền của họ, rồi đến tướng tham gia họp Quốc hội không dám nhắc tên Trung Quốc thì đủ hiểu quân đội Việt Nam rất yếu. Thì đây là minh chứng cho tư tưởng chủ bại rõ nhất.
Nhìn vào toàn cảnh đất nước Việt Nam chúng ta thấy gì? Về quân sự, chúng ta thấy ĐCS không có khả năng phòng vệ trước kẻ thù nguy hiểm nhất; về chính trị, thì cúng ta thấy ĐCS Việt Nam càng ngày càng gần gũi với ĐCS Trung Quốc hơn, và giữa 2 ĐCS đã ký rất nhiều văn bản mật với nhau mà dân không hề hay biết; về kinh tế thì ĐCS Việt Nam đã để Trung Quốc nắm hết mọi ngành chủ lực, và đồng thời để Trung Quốc dùng hồn Tàu mượn xác Việt để làm ăn gian dối với Mỹ. Đó là hình ảnh mất nước không tiếng súng.
Sẽ không có chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vì chiến tranh chỉ xảy ra khi kẻ bị xâm lược quyết liệt phản kháng. Còn đứng trước kẻ hèn, kẻ chủ bại chỉ cần dọa bao nhiêu lùi bước bấy nhiêu thì cần gì chiến tranh? Chỉ dọa là có thể đạt được thành công như mong đợi. Đó là thực tế đang diễn ra ở đất nước này. Chưa có thời nào, chủ quyền quốc gia mất dễ dàng như thời này./.