Đến giờ phút này, ‘xoay trục’ sang Mỹ hầu như đã là một định đề phải có và không còn lối thoát nào khác của chính thể độc đảng ở Việt Nam. Nhưng sẽ là ‘xoay trục’ ra sao và đến mức độ nào?
Hậu quả từ mê nhảm ngủ ngày
Chiến dịch gây hấn của Trung Quốc mang tên ‘Hải Dương 8’ cùng những trò phép tiếp sau tàu này nổ ra tại Bãi Tư Chính của Việt Nam vào năm 2019 hoàn toàn xứng đáng là đáp án thích đáng cho phương trình ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười Sáu Chữ Vàng’ mà giới chóp bu Hà Nội vẫn mê nhảm trong cơn ngủ ngày.
Cơn ngủ ngày đó đã lê lết thảm thiết từ tháng 5 năm 2014 – khi nổ ra vụ giàn hoan Hải Dương 981 của Trung Quốc lao vào Biển Đông như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Việt Nam… cho tới tận giờ này.
Cái cách mà Nguyễn Phú Trọng bày tỏ ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam’ hệt như lối lấy lòng ‘đảng anh’ của ông ta chỉ tổ khiến Tập Cận Bình lên mặt trịch thượng và ‘mềm nắn’ hơn nữa với ‘đứa con hoang đàng’ (từ ngữ mà Ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì đã xỉ vả các ủy viên bộ chính trị Việt Nam ngay tại Hà Nội vào năm 2014, vài tháng sau khi xảy ra biến cố Hải Dương 981).
Tính thực chứng về hậu quả đã hiện ra rất rõ: bất chấp những chuyến ‘triều kiến’ liên tục của đích thân Nguyễn Phú Trọng và và các nhân vật còn lại trong ‘tứ trụ’ vào thời Trần Đại Quang còn chưa chết và vào thời hậu Quang, bất chấp việc giới quan chức cao cấp Việt Nam đã cúc cung muối mặt mời Tập Cận Bình phát biểu trong nghị trường của một quốc hội ‘nghị gật’ ở Hà Nội trong lúc công an Việt thẳng tay đánh đổ máu đồng bào mình vì dám phản đối họ Tập, cũng bất chấp việc giới quan chức cao cấp Việt Nam đã cúi mình ký kết với Trung Quốc hàng chục văn kiện hợp tác và thỏa hiệp về nhiều chuyện – đặc biệt là cơ chế nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc và cho nhà thầu Trung Quốc những ưu đãi quá lớn – sau vụ Hải Dương 981…, Bắc Kinh vẫn tuần tự và lạnh lùng đánh thẳng vào yết hầu nuôi đảng của ‘đảng em’ Việt Nam là Bãi Tư Chính trong ba năm liên tiếp – lần đầu vào tháng 7 năm 2017, lần thứ hai vào tháng 3 năm 2018 và thêm một lần nữa – nguy biến hơn hẳn – vào năm 2019.
Chính sách ‘ba không’ của chính thể độc tài ở Việt Nam đã vỡ vụn như những con tàu ngư dân Việt bị lừa bọc bằng sắt gỉ của Trung Quốc để khi tiến ra biển lớn đã vỡ tung. Nhưng với não trạng bị xem là ‘hèn với giặc, ác với dân’ của giới cầm quyền ở Việt Nam, sự thể cay đắng nhất, cay đắng tận cùng vẫn là việc ‘đảng em’ bị chính ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ – như cách mà Hà Nội thường tụng ca Trung Quốc đến ngút ngàn mây xanh’ – ép vào tử lộ.
‘Trung Quốc dồn Việt Nam vào chân tường rồi!” – lời tán thán thốt lên bởi một viên tướng trên mâm chiếu có đến 500 tướng quân đội ở Việt Nam – hẳn đã phản ánh cái thế ‘kẻ thù lớn bởi vì mi quỳ xuống’ mọp lạy bỉ bôi đến thế nào.
Nếu mất Bãi Tư Chính?
Đã đến nước này, không phản ứng thì chỉ có chết. Chết theo đúng nghĩa bóng và cả nghĩa đen.
Bởi Bãi Tư Chính – nơi mà Trung Quốc không thèm giấu diếm ý đồ muốn nuốt trọn – là khu vực màu mỡ nhất về dầu và khí đốt, tập trung nhiều nhất các lô dầu khí là tiềm năng thiên nhiên duy nhất còn lại ở Việt Nam, sau khi ‘rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu’ đã cạn kiệt và hoang hóa sau hơn bốn chục năm ‘giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’ và bởi nguồn cơn ‘có cho người cộng sản cả một sa mạc thì họ vẫn phải nhập khẩu cát’.
Sự thật rành rành là nếu mất Bãi Tư Chính, hoặc nếu không mất nhưng phải cắm mặt ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí’ với Trung Quốc để chấp nhận chia tỷ lệ đến 60% hoặc hơn cho ‘đồng chí tốt’, trong khi Bắc Kinh chỉ đơn giản là thò tay vào túi người khác móc tiền, chính thể Việt Nam sẽ mất trắng hoặc mất phần lớn số ngoại tệ lên đến 4-5 tỷ USD mỗi năm – bằng với ngân khoản chi phí cho quốc phòng và bổng lộc hàng năm cho 500 tướng quân đội cùng nhiều ngàn đại tá của chế độ này.
Trong khi đó, tình cảnh đã trở nên bĩ cực đến khôn tả: cho dù luôn tuyên rao có chẵn một chục ‘đối tác chiến lược toàn diện’ với nhiều quốc gia trên thế giới, đã không một bàn tay nào được chìa ra cho Việt Nam kể từ khi nổ ra vụ Hải Dương 981 và tiếp đến vụ Bãi Tư Chính trong ba năm liên tiếp 2017, 2018 và 2019. Trong số đó, có cả hai ‘đối tác chiến lược’ có lợi ích ở Bãi Tư Chính là Tây Ban Nha – mỏ Cá Rồng Đỏ, và Nga – mỏ Lan Đỏ, đều tuyệt đối im tiếng.
Trong tận cùng nỗi ‘cô đơn chiến lược’ như thế, rốt cuộc chính thể Việt Nam phải dựa vào ai?
Chỉ còn có Mỹ – đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông.
Làm sao để bỏ đá ghè chân mình?
Mỹ cũng có lợi ích về dầu khí ở vùng biển ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi của Việt Nam: mỏ khí đốt Cá Voi Xanh có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối và có thể mang lại đến 60 tỷ USD – một con số khổng lồ và cực kỳ hấp dẫn để trám bù vào ngân sách hộc rỗng của đảng CSVN.
Nhưng Mỹ lại chưa hề là ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam. Thậm chí Mỹ còn bị Nguyễn Phú Trọng và những người đồng đảng của ông ta xem là ‘đối tác toàn diện loại thường’.
Bài toán đặt ra với Trọng hiện thời là một sự gấp rút thời gian khi phải lôi kéo được người Mỹ tham gia bảo vệ không chỉ vùng biển mà cả vùng trời của Việt Nam ở Biển Đông, mà nếu động thái đó được triển khai có hiệu quả thì Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sẽ yên tâm khai thác dầu khí cùng với các đối tác liên doanh mà không còn quá sợ hãi bị Trung Quốc nắt nạt, còn Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng có thể tỏ ra can đảm hơn đôi chút chứ không đến nỗi bị dân chửi ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ và ‘chưa đánh chác gì đã đái cả ra quần’.
Nhưng muốn đạt được ý đồ trên, chính thể độc đảng ở Việt Nam lại phải tính đến việc từ bỏ một phần hoặc toàn bộ chính sách ‘ba không’ giáo điều và vô bổ của nó, nhất là hai nguyên tắc không liên kết với nước này để chống lại nước khác và không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam mà đã tự lấy đá ghè chân mình.
Bởi thực chất mối quan hệ ‘đối tác chiến lược’ mà giới chóp bu Việt Nam đang muốn tìm kiếm ở người Mỹ là sẽ phải giải tỏa những nguyên tắc cản đường: không những Việt Nam và Mỹ phải tiến đến một quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ theo mô hình tương trợ quốc phòng mà Mỹ đã ký và thực thi với Philippines, mà Việt Nam phải thừa hiểu là chỉ khi cho Mỹ đặt căn cứ quân sự ở quân cảng Cam Ranh thì tàu Mỹ và máy bay Mỹ mới có thể khống chế được các tàu và máy bay Trung Quốc từ phía Bắc lấn xuống Biển Đông.
Chứ không thể chỉ bằng cách ‘đọc vẹt’ của người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam về ‘tôn trọng tự do hàng hải’ và cả ‘tự do hàng không’ là đã đủ cho mối quan hệ tương trợ quốc phòng Việt – Mỹ. Cũng không chỉ bằng cử chỉ âm thầm ‘trốn’ không chịu đi Bắc Kinh của Nguyễn Phú Trọng.
Nếu chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng sẽ diễn ra vào tháng 10 năm 2019 như một dự kiến mới nhất, đó sẽ là cuộc làm việc còn quan trọng hơn cả sĩ diện của cá nhân ông Trọng. Đó là vận mạng của các mỏ dầu khí ở Biển Đông, của ngân sách đảng, thậm chí còn là số phận của đảng CSVN và của toàn bộ lực lượng ‘còn đảng còn tiền’ và ‘còn đảng còn mình’.
Đến giờ phút này, Việt Nam ‘xoay trục’ sang Mỹ hầu như đã là một định đề phải có và không còn lối thoát nào khác. Cần có một điểm gặp nhau của chính sách xoay trục của Hoa Kỳ về châu Á – Thái Bình Dương từ năm 2013 với chủ trương xoay trục từ phương Bắc sang phương Tây của Việt Nam ngay vào lúc này, sau khi giới chóp bu Hà Nội đã bỏ lỡ không ít cơ hội để làm điều đó suốt từ năm 2014 đến tận gần đây.
Điểm gặp nhau đó sẽ thành hình vào lúc nào và như thế nào? Mọi chuyện tùy thuộc vào cái thế bị dồn đến chân tường của Việt Nam, và phụ thuộc phần lớn vào quan điểm và ‘bản lĩnh Nguyễn Phú Trọng’ khi ông ta đàm phán ở Washington không chỉ với Donald Trump mà cần với cả Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Hoa Kỳ./.