(VNTB) – Bắc Kinh phải trả giá khi cho phép lực lượng hải cảnh cản trở tự do hàng hải.
***
Bộ Ngoại giao Mỹ đã cân nhắc mạnh mẽ vào tuần trước về hành vi quấy rối của Trung Quốc đối với các hoạt động khai thác dầu khí của Malaysia và Việt Nam ở Biển Đông. Phát ngôn viên Morgan Ortagus đã lên tiếng “việc Bắc Kinh liên tục ngăn cản các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam ở ngoài khơi”, nghi ngờ về ” cam kết của Trung Quốc trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển”. Bộ Ngoại Giao đã đúng đắn khi công kích Bắc Kinh bằng ngoại giao, nhưng Hoa Kỳ và các đối tác cần phải làm nhiều hơn để thuyết phục Trung Quốc kiềm chế tàu hải cảnh và dân binh trước khi xảy ra một vụ va chạm chết người và do đó có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng rộng lớn hơn.
Tình hình ngoài khơi bờ biển Việt Nam đã thu hút nhiều sự chú ý nhất, nhưng Trung Quốc bắt đầu gây hấn vào tháng Năm ở phía bên kia Biển Đông. Hai tàu hợp đồng với một công ty con của Royal Dutch Shell đã hoàn thành một trong những chuyến đi thường xuyên từ bang Sar Sarawak của Malaysia đến một giàn khoan hoạt động ngoài khơi Biển Đông vào ngày 21 tháng 5 khi chuyện trở nên tồi tệ. Một tàu hải cảnh lớn của Trung Quốc, Haijing 35111, xuất hiện. Tàu Trung Quốc đi vòng quanh các tàu thương mại tới trong phạm vi 80 mét với tốc độ cao.
Những cuộc diễn tập này đã được bộ phận Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế theo dõi tín hiệu nhận dạng do các tàu truyền đi. Vụ việc trên là một những hành động gây rối và cản trở hoạt động của Shell trong suốt hai tuần của tàu Haijing 35111. Cuối tháng 5, tàu này đã bỏ cuộc và quay trở về cảng ở Hải Nam, nhưng không lâu.
Ngày 16 tháng 6, tàu Haijing 35111 đã đến vùng biển Việt Nam, nơi công ty năng lượng Nga Rosneft đã ký hợp đồng với một giàn khoan của Nhật Bản để khoan một giếng dầu mới. Từ đó cho tới nay, tàu hải cảnh và những tàu tương tự vẫn tiếp tục quấy rối giàn khoan và những tàu phục vụ giàn khoan. Tàu Trung Quốc đã sử dụng các hành động mạo hiểm tương tự như ngoài khơi Malaysia để dọa gây va chạm nhằm gây áp lực với Việt Nam và Rosneft để ngăn chặn việc khoan dầu.
Khí đốt từ các giàn khoan ở khu vực này cung cấp tới 10% năng lượng cho Việt Nam. Và việc giữ Rosneft không bị áp lực trước Trung Quốc là điều rất quan trọng đối với ngành dầu khí Việt Nam. Bắc Kinh đã ép hầu hết các công ty nước ngoài lớn khác như BP, Chevron, ConocoPhillips và gần đây nhất là Repsol phải rút các khoản đầu tư của họ ra khỏi các mỏ khai thác dầu khí ngoài khơi Việt Nam. Nếu Rosneft bị buộc phải dừng công việc của mình, thì các công ty cuối cùng, đặc biệt là Exxon Mobil hiện đang chuẩn bị thực hiện dự án Cá Voi Xanh ở phía Bắc phải suy nghĩ lại về việc đầu tư ở đây.
Haijing 35111 đã không thể ngăn chặn các dự án khoan dầu của Việt Nam và Malaysia, nhưng không phải là không có tổn hại. Tàu của chính phủ Trung Quốc, Hải Dương 8, đã xâm phạm vùng biển Việt Nam vào ngày 3 tháng 7 và bắt đầu thực hiện khảo sát dầu khí. Cuộc khảo sát đó hiện vẫn tiếp tục được tiến hành trên thềm lục địa mà Việt Nam có chủ quyền hẳn hoi theo luật pháp quốc tế.
Tín hiệu cho thấy nhiều tàu hải cảnh Trung Quốc và các thành viên của Lực lượng vũ trang Dân binh Hàng hải là một lực lượng bán quân sự chính thức hoạt động trên các tàu đánh cá tàu hộ tống tàu khảo sát. Việt Nam đã nhanh chóng phái các tàu hải cảnh ra bảo vệ giàn khoan của mình và theo dõi tàu khảo sát của Trung Quốc. Điều này tạo ra một tình huống bất ổn mà các vụ va chạm có thể dễ dàng xảy ra dù cố ý hay không. Do đó có thể dẫn đến một cuộc đối đầu quân sự công khai.
Một tàu khảo sát thuộc sở hữu nhà nước khác của Trung Quốc, Shi Yan 2, đã có một tuần vào đầu tháng 8 khảo sát vùng biển Malaysia, gồm các khu vực có các giàn khoan của Shell và các công ty khác vận hành. Kể từ ngày 14 tháng 8, một tàu khảo sát thứ ba của Trung Quốc, Haiyang 4, đã khảo sát khu vực thuộc thềm lục địa Malaysia và Việt Nam cùng tuyên bố có chủ quyền.
Không có giải pháp quân sự cho mô hình xâm phạm này của Trung Quốc. Nếu Washington muốn ngăn chặn một cuộc khủng hoảng và chứng minh rằng họ nghiêm túc bảo vệ tự do hàng hải, thì Washington phải cần một chiến lược kinh tế và ngoại giao mạnh mẽ với các đối tác quốc tế. Mục tiêu buộc Bắc Kinh trả giá cho các hành vi của họ và thuyết phục các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng họ sẽ mất nhiều trên trường thế giới hơn là những lợi lộc mà họ thu được từ các hoạt động xâm phạm trong khu vực.
Một chiến lược như vậy phải bắt đầu bằng việc Bộ Ngoại giao cùng các quốc gia khác như Châu Âu, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc để kêu gọi Trung Quốc tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý của mình. Liên minh càng kêu gọi Bắc Kinh thay đổi hành vi càng nhiều, thì cái giá uy tín mà Trung Quốc phải trả cho việc duy trì hành động hiện tại sẽ càng cao.
Hoa Kỳ và các đồng minh nên kết hợp điều này với việc áp đặt chi phí cái giá kinh tế trực tiếp. Nếu Trung Quốc muốn dựa vào lực lượng dân sự và quân đội để cưỡng chế các nước láng giềng, thì những lực lượng đó nên bị vạch mặt. Hoa Kỳ và các quốc gia đối tác nên xác định công khai các lực lượng dân sự Trung Quốc tham gia vào các hoạt động dân quân nhắm vào các nước láng giềng của Trung Quốc.
Washington nên ngăn chặn các thực thể này kinh doanh tại Hoa Kỳ hoặc tiếp cận thị trường tài chính quốc tế thông qua Đạo luật trừng phạt Biển Đông, hiện đang được đưa ra trước lưỡng viện. Đã từng có tiền lệ đó là Hoa Kỳ và Châu Âu đã phản ứng tương tự với việc Nga sử dụng lực lượng bán quân sự ở miền đông Ukraine năm 2014.
Trung Quốc đang tham gia vào một chiến dịch ăn hiếp, đe dọa và bạo lực bán quân sự dài hạn đối với Việt Nam, Malaysia và Philippines. Việc cương quyết theo đuổi các tuyên bố chủ quyền bỏ qua luật pháp quốc tế đã công nhận chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á là một thách thức nghiêm trọng đối với trật tự hàng hải quốc tế và sự ổn định khu vực.
Leave a Comment