Khi vụ Bãi Tư Chính bùng nổ từ đầu tháng 7 năm 2019, đã dần hé lộ thêm những tin tức châm dầu vào lửa: trước đó vào đầu tháng 6, Trung Quốc bắt đầu có động thái cản trở việc hãng Rosneft của Nga và một công ty Nhật thực hiện hợp đồng khoan mở rộng để thăm dò dầu khí ở vùng biển, và hành vi đó kéo dài từ đó đến nay.
Như vậy, quy mô cuộc khủng hoảng Bãi Tư Chính năm 2019 còn vượt hơn cả hai lần khủng hoảng cùng địa chỉ: vào tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2108, các tàu hải cảnh Trung Quốc bao vây Bãi Tư Chính để gây sức ép buộc Repsol – công ty Tây Ban Nha liên doanh với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phải rút khỏi mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ, nhưng chưa đụng chạm trực tiếp đến mỏ dầu khí Lan Đỏ – dự án liên doanh giữa Tập đoàn Rosneft của Nga với VietsoPetro của Việt Nam.
Có thể hiểu một cách không chính thức, hoặc chính thức, chiến dịch mang mục tiêu biến vùng lãnh hải Việt Nam thành ‘vùng tranh chấp dầu khí’ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được Bắc Kinh mở rộng và đánh vỗ mặt cả quốc gia đang được xem là cùng ‘trục’ với Trung Quốc là Cộng hòa Liên bang Nga.
Còn chính thể độc tài ở Việt Nam đang trở thành nạn nhân phải gánh chịu mối nguy hiểm thiệt kép: nguy cơ không chỉ mất mỏ Cá Rồng Đỏ mà có thể cả mỏ Lan Đỏ vào tay Trung Quốc.
Việc mỏ Lan Đỏ nằm trong danh sách khủng hoảng Việt – Trung vào lần này đã lý giải một trong những nguyên do khiến Nguyễn Phú Trọng, khi còn chưa ngồi vào ghế của kẻ quá cố Trần Đại Quang, đã tiến hành một chuyến thăm Nga vào tháng 9 năm 2018.
Vào khoảng thời gian đó, chính thể Việt Nam, cùng nền ngân sách đang rơi vào cảnh suy kiệt mà chỉ còn trông chờ vào thói đè đầu dân chúng để tróc thuế và khai thác nguồn tài nguyên gần như duy nhất còn lại là dầu khí, đã lâm vào bi kịch không những phải ‘giương cờ trắng’ tại mỏ Cá Rồng Đỏ ở phía Nam và mỏ Cá Voi Xanh ở vùng biển miền Trung trước đe dọa của Trung Quốc, mà còn phải ‘quy hàng thiên triều’ ở mỏ Lan Đỏ ở khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu.
Sau hai lần liên tiếp phải tháo chạy khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, đến đầu năm 2018 chính thể độc đảng ở Việt có vẻ ‘khôn ra’ khi tìm cách dựa dẫm vào Công ty dầu mỏ quốc gia Nga Rosneft để khoan giếng LD-3P, thuộc mỏ khí ngoài khơi Lan Đỏ ở Lô 06.1, cách phía đông nam Việt Nam 370 km.
Nhưng vào năm 2018, ngay cả Rosneft của người Nga cũng rơi vào tình trạng cám cảnh như Repsol của Tây Ban Nha khi bắt đầu bị Trung Quốc gây sức ép phải rời bỏ mỏ Lan Đỏ.
Vào tháng Năm năm 2018, Rosneft đã phải lên tiếng bày tỏ lo ngại rằng hoạt động khoan dầu mới hợp tác với Việt Nam gần đây trong khu vực Biển Đông sẽ khiến Bắc Kinh nổi giận. Một công ty nghiên cứu và tư vấn năng lượng là Wood Mackenzie cho biết lô này nằm trong khu vực đường lưỡi bò chín đoạn mà Trung Quốc tự vạch ra.
Tuyên bố của Rosneft được đưa ra vào lúc tại Bắc Kinh, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Lục Khảng lên tiếng cảnh cáo là không một quốc gia, tổ chức, công ty hoặc cá nhân nào có quyền tiến hành thăm dò hoặc khai thác dầu khí trong vùng biển của Trung Quốc nếu không được phép của Bắc Kinh.
Phải chăng Tổng bí thư Trọng muốn thúc giục Nga cần mạnh mẽ hơn trong kế hoạch khai thác mỏ Lan Đỏ?
Tuy nhiên, thái độ của người bạn được xem là truyền thống ấy của Việt Nam lại không hề làm giới chóp bu Việt Nam an tâm. Đơn giản là trong toàn bộ vụ Hải Dương 981 vào năm 2014, Moscow đã giữ im lặng, cho dù quốc gia này vẫn chiếm đến 90% lượng vũ khí cung cấp cho Việt Nam, tính đến thời điểm này.
Sự im lặng đầy chủ ý của người Nga có thể được lý giải phần nào: Putin đã và đang trở thành một đồng minh thân cận của Tập Cận Bình trong cuộc chiến tranh lạnh đang được khởi động với người Mỹ.
Logic của sự im lặng trên đang dẫn ra một nguy cơ mới đối với giới chóp bu Việt Nam: sắp tới, nếu Putin và Tập Cận Bình thỏa thuận được với nhau một lợi ích nào đó lớn hơn hẳn lợi nhuận từ mỏ Lan Đỏ mà Rosneft hợp tác với Việt Nam cùng khai thác, tương lai chắc chắn là Rosneft cũng sẽ phải cuốn cờ tháo chạy khỏi vùng chủ quyền Việt Nam như Repsol đã từng như thế./.