(Kỳ 1)
Nhiều người Việt Nam đang trầm trồ ngắm nhìn người Hong Kong.
Họ đang quật cường bảo vệ nền pháp quyền và nhân quyền của họ khỏi Dự luật Dẫn độ đầy tai tiếng, và cứng rắn đòi hỏi quyền lợi tới mức người đứng đầu chính quyền Hong Kong đã phải xin lỗi họ.
Nhờ đâu mà người dân Hong Kong (bao gồm phần lớn là giới trẻ) có một tinh thần hoạt động dân chủ mạnh mẽ, một thái độ đầy “bản sắc anh hùng”, bất khinh sợ chính quyền như thế?
Một số người đã nói: Vì người dân Hong Kong có một lịch sử “hưởng” dân chủ lâu dài từ thời còn là thuộc địa Anh, vì người dân Hong Kong “được hưởng” một nền giáo dục tương đối tiến bộ, lại “được sống” trong một xã hội (hiện vẫn) tương đối có tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Cách nhìn chú trọng vào điều kiện lịch sử, xã hội như thế thường bỏ lỡ một khía cạnh khác: bản thân người dân Hong Kong đã làm gì để nuôi nấng và hun đúc tinh thần dân chủ của họ?
Nghiên cứu sâu về lịch sử phong trào dân chủ Hong Kong cho chúng ta thấy rằng, công cuộc “nuôi nấng” tinh thần dân chủ tại Hong Kong thường gắn liền với công cuộc định hình và vun đắp bản sắc dân tộc (national identity).
Công cuộc đó đều có đóng góp từ cả hai phía: ảnh hưởng (dù tốt dù xấu) từ các nhà cầm quyền qua các thời kỳ, và hoạt động của bản thân người dân.
Người dân Hong Kong, qua bao thăng trầm từ thời thuộc địa cho đến nay, vẫn đã luôn biết chủ động duy trì và làm mới tinh thần dân chủ trong xã hội họ, bằng những tiếng kèn tập kết – những thông điệp chính trị đưa ra các cách khác nhau để định hình bản sắc dân tộc.
Nếu thế hệ những người hoạt động dân chủ cũ của Hong Kong dùng tiếng kèn tập kết là chủ nghĩa yêu nước dân chủ phi cộng sản, thì thế hệ hoạt động dân chủ mới của Hong Kong lại đang dùng một tiếng kèn tập kết mới: chủ nghĩa bản thổ Hong Kong (localism).
Tuy các cách định hình bản sắc đó có khác nhau, chúng đều có khả năng thu hút sự chú ý và huy động sự ủng hộ lớn từ dân chúng Hong Kong.
Điểm chung của những tiếng kèn tập kết này là gì?
Chúng đều bắt đầu từ chung một câu hỏi về national identity – bản sắc dân tộc hay căn tính dân tộc: “Chúng ta (người Hong Kong) là ai?”
Ta thấy ta trong tiếng kèn tập kết: Căn tính công dân hay Căn tính sắc tộc
Để hiểu những tiếng kèn tập kết này rõ hơn, bạn đọc cần tạm chấp nhận vài khái niệm xã hội học cơ bản.
Đầu tiên là khái niệm “cộng đồng tưởng tượng” đến từ một cuốn sách đang ngày càng được công luận Việt Nam chú ý: Những cộng đồng tưởng tượng.
Trong cuốn sách này, nhà xã hội học Benedict Arnold tranh luận rằng, bản sắc/căn tính dân tộc không hình thành một cách khách quan trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mà được tạo tác bởi chính con người – thông qua trí tưởng tượng của cả một tập thể người, dưới sự chi phối (dù tốt dù xấu) của các quyền lực chính trị.
Theo luận điểm này, con người không tự nhiên sinh ra lại có sẵn một căn tính dân tộc xác định. Họ lớn lên và hòa mình vào một tập thể người. Tập thể người đó có chung một căn tính dân tộc.
Nhưng căn tính này không tồn tại độc lập trong tự nhiên và cũng không đóng khung đông cứng mãi mãi. Nó được hình thành, duy trì, hay thay đổi đều qua trí tưởng tượng chung của cả tập thể đó.
Những ai có quyền lực chính trị trong tập thể đó đều hoàn toàn có thể nhào nặn căn tính dân tộc theo ý riêng của mình.
Sau đó, họ có thể áp đặt, ép buộc cả tập thể phải chấp nhận và tiếp thu phiên bản căn tính dân tộc đó của họ. Hoặc họ có thể kiên nhẫn thuyết phục, vận động cho đến khi cả tập thể chấp nhận và tiếp thu phiên bản căn tính dân tộc đó.
Thứ hai, theo nhà xã hội học Anthony D. Smith, bản sắc/căn tính dân tộc có thể được chia thành hai loại khác nhau: căn tính công dân (civic identity) và căn tính sắc tộc (ethnic identity).
Căn tính sắc tộc dễ hiểu hơn cả: Nó xuất phát từ gốc gác ông bà tổ tiên, và từ nền tảng văn hóa bẩm sinh của mỗi người (bao gồm ngôn ngữ, tập tục, truyền thống).
Một tập thể có cùng căn tính sắc tộc là một tập thể có chung gốc gác ông bà tổ tiên, nói cùng ngôn ngữ, và chia sẻ những tập tục truyền thống giống nhau.
Theo đó, một người Hong Kong và một người Việt Nam có bản sắc/căn tính dân tộc(national identity) khác nhau vì cả hai có căn tính sắc tộc (ethnic identity) khác nhau: không có chung gốc gác tổ tiên, nói khác ngôn ngữ, và có những tập tục truyền thống khác nhau.
Căn tính công dân dài dòng khó hiểu hơn: Một tập thể có cùng căn tính công dân là một tập thể đã sống lâu năm trên một vùng lãnh thổ (ví dụ, một ngôi làng – làng Đại Vũ).
Tại nơi đó, tập thể này cùng chấp nhận và tuân thủ một bộ luật chung cho cộng đồng mình (lệ làng thể theo hương ước làng Đại Vũ). Họ cùng tôn trọng một hệ thống các thiết chế quản lý xã hội chung (hội đồng các già làng Đại Vũ).
Họ có những quyền và nghĩa vụ pháp lý, chính trị giống nhau (ai cũng có quyền đi lại tự do trong làng Đại Vũ, nhưng phải trật tự không được làm ồn trong làng vào ban đêm; ai cũng có quyền nêu ý kiến trước hội đồng các già làng Đại Vũ, nhưng gần đến dịp hội làng thì ai cũng phải tham gia chuẩn bị cùng mọi người trong làng).
Một tập thể có cùng căn tính công dân là một tập thể có chung một văn hóa chính trị (political culture) với các tập quán thực hành quyền và nghĩa vụ công dân (civic rights and duties) giống nhau.
Giả sử có trường hợp như sau: có một người tới từ làng khác, vốn có tập quán xem các già làng là lẩm cẩm không đáng nghe, và xem việc tham gia chuẩn bị hội làng là một việc phải có trả tiền công thì mới làm.
Nếu người này vẫn ngang ngạnh không chịu chấp nhận văn hóa thực hành chính trị tại ngôi làng Đại Vũ, thì sẽ không được xem là có cùng căn tính công dân (civic identity) với dân làng Đại Vũ.
Căn tính sắc tộc và căn tính công dân trong thực tế không nhất thiết là loại trừ nhau. Cả hai đều có thể cùng tồn tại song song hoặc hòa trộn các yếu tố với nhau.
Hiểu các khái niệm xã hội học nói trên rồi, bây giờ ta nhìn vào những tiếng kèn tập kết của giới hoạt động dân chủ Hong Kong.
Bản sắc dựa trên chủ nghĩa yêu nước dân chủ
Chính quyền Anh chiếm đóng Hong Kong từ năm 1841. Từ khi đó cho đến khi trao trả Hong Kong cho Trung Quốc năm 1997, thực ra chính quyền thuộc địa Anh không hề tạo điều kiện cho người dân Hong Kong được dân chủ hoàn toàn (tức là được trực tiếp tự bầu ra người lãnh đạo khu vực, tự làm luật quản lý xã hội mình).
Phần đông người dân Hong Kong thời thuộc địa đến từ các tỉnh khác của Trung Hoa đại lục. Họ không xem mình là người Hong Kong. Họ đơn giản xem Hong Kong là chỗ lánh nạn tạm thời, hay chỗ để làm ăn, kiếm tiền trước khi về quê hay đi nơi khác.
Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm 1960, cả chính phủ Anh và chính phủ Trung Quốc cộng sản bắt đầu thắt chặt biên giới, ngăn chặn nhập cư qua lại giữa Hong Kong và đại lục. Cùng thời điểm, những người dân có gốc Trung Hoa đại lục sinh sống tại Hong Kong bắt đầu đoàn kết hơn để đấu tranh đòi quyền lợi từ chính quyền thuộc địa Anh.
Các yếu tố này bắt đầu làm nảy sinh một căn tính bản thổ (local identity) của người Hong Kong.
Sang những năm 1970, tuy vẫn không mở rộng dân chủ, nhưng với nhu cầu quản lý dân chúng dễ dàng hơn, chính quyền thuộc địa Hong Kong bắt đầu có những chính sách nhất định để xây dựng các quy củ cộng đồng kiểu Anh và truyền bá giáo dục về quyền và nghĩa vụ công dân cho người dân Hong Kong.
Hong Kong phát triển mạnh về kinh tế từ những năm 1970. Điều này góp phần tạo ra một số đông người dân Hong Kong vừa an cư lạc nghiệp, ăn nên làm ra, vừa ngày càng nhìn nhận rõ vai trò và trách nhiệm công dân của họ với cộng đồng Hong Kong của mình.
Người Hong Kong bắt đầu có căn tính công dân (civic identity) dựa trên một tập quán thực hành chính trị riêng: tuân thủ luật pháp của chính quyền thuộc địa, tôn trọng hệ thống tòa án độc lập của Hong Kong, nhưng chấp nhận đa nguyên tư tưởng và không tránh né các chuyện chính trị hay luồn cúi trước chính quyền thuộc địa, mà biết dùng các quyền công dân của mình để đòi hỏi mở rộng dân chủ, tạo thêm quyền tham chính cho người dân bản địa.
Thế hệ người Hong Kong có tiềm lực kinh tế, có ý thức công dân mạnh, và có văn hóa chính trị riêng này là thế hệ những người hoạt động dân chủ đầu tiên của Hong Kong trong những năm 1980.
Nhưng thời thế cũng thay đổi vào những năm 1980: chính quyền Anh và chính quyền Trung Quốc bắt đầu hòa hiếu với nhau và tiến hành thương lượng về việc trao trả Hong Kong lại cho Trung Quốc. Trung Quốc đưa ra lời hứa “một quốc gia, hai chế độ” – cho phép Hong Kong được giữ nguyên hệ thống chính trị thuộc địa sau khi trao trả.
Vì vậy, người dân Hong Kong và người dân Trung Hoa đại lục bắt đầu hòa nhập với nhau sâu rộng hơn. Phong trào đòi mở rộng dân chủ tại Trung Hoa đại lục những năm 1980 cũng đang lớn mạnh (cho đến khi bị dập tắt đẫm máu trong sự kiện Thiên An Môn năm 1989).
Theo đó, trong những năm 1980, người dân Hong Kong bắt đầu hình thành cho mình một ý thức về bản sắc/căn tính dân tộc (national identity) gắn liền với các đồng bào Trung Hoa đại lục của họ: người Hong Kong xem mình là người Trung Quốc.
Đó là một dạng căn tính dân tộc dựa trên sắc tộc (ethnic national identity): chung gốc Trung Hoa đại lục, chung ngôn ngữ, chung truyền thống ngàn đời.
Nhưng vì đã có trên dưới 20 năm thực hành văn hóa chính trị kiểu Anh, người Hong Kong thích thực hành dân chủ kiểu Anh và không sùng bái chủ nghĩa cộng sản như người dân Trung Hoa lục địa. Có điều là yếu tố văn hóa chính trị này lúc đó vẫn không mạnh bằng yếu tố nguồn gốc sắc tộc.
Với căn tính sắc tộc lai tạp công dân này, giới hoạt động dân chủ Hong Kong những năm 1980 tạo ra một tiếng kèn tập kết cho phong trào dân chủ: “Chúng ta là dân tộc Trung Quốc, đấu tranh vì một nước Trung Quốc dân chủ”.
“Nước Trung Quốc” ở đây bao gồm Trung Hoa lục địa, và cả những vùng lãnh thổ như Đài Loan, Macao, Hong Kong.
Giới hoạt động dân chủ Hong Kong thế hệ những năm 1980 xem trách nhiệm của họ là giúp dân chủ hóa cả Trung Hoa lục địa, chứ không chỉ dân chủ hóa Hong Kong. Yêu nước Trung Quốc tức là phải làm cho cả nước Trung Quốc được dân chủ.
Với tiếng kèn tập kết này, giới hoạt động dân chủ Hong Kong suốt các thập niên 1990 và 2000 đã vừa vận động cho việc dân chủ hóa Trung Hoa lục địa, vừa đấu tranh để mở rộng quyền tham chính cho người dân Hong Kong, trước và sau khi Hong Kong đã được trao trả cho Trung Quốc vào năm 1997.
Tuy nhiên, chính quyền Hong Kong thời hậu thuộc địa vẫn không cho người dân Hong Kong được quyền phổ thông đầu phiếu (universal suffrage) để mỗi người Hong Kong được bỏ phiếu trực tiếp bầu ra vị Trưởng đặc khu hành chính Hong Kong.
Hội đồng Lập pháp (Legislative Council – Legco) vẫn chỉ có một nửa số dân biểu do người dân Hong Kong trực tiếp bầu ra.
Giới hoạt động dân chủ Hong Kong những năm 2000 có một số thành công nhất định: năm 2003, phong trào đã vận động được 500.000 người xuống đường để phản đối việc chính quyền đưa ra luật chống phản động (anti-subversion) vốn có nguy cơ bóp nghẹt các quyền chính trị. Dự luật đó cuối cùng đã bị rút lại.
Tuy nhiên, sang đến năm 2008, phong trào dân chủ Hong Kong bắt đầu bị hụt hơi trong quá trình chuyển đổi (transition fatigue).
Bởi vì mặc cho một loạt các phong trào đòi hỏi mở rộng quyền chính trị, mặc cho việc có một loạt các đảng chính trị ủng hộ dân chủ ở Hong Kong, chính quyền Hong Kong – dưới bàn tay sắt của chính quyền cộng sản Bắc Kinh – vẫn không đáp ứng một cách đầy đủ và thực chất các yêu cầu của giới hoạt động dân chủ Hong Kong.
Trái lại, Bắc Kinh còn ngày càng can thiệp mạnh và sâu hơn vào chính trị Hong Kong, ngang nhiên đi ngược lại lời hứa “một quốc gia, hai chế độ” hồi những năm 1980.
Phong trào dân chủ Hong Kong cuối thập niên 2000 phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng: họ không những không vận động được cho Trung Hoa đại lục dân chủ thêm tí nào, mà nay còn phải nhìn Hong Kong của mình ngày càng bị Bắc Kinh kìm kẹp về chính trị.
Tiếng kèn tập kết dựa trên chủ nghĩa yêu nước dân chủ bắt đầu mất dần ảnh hưởng. Phong trào dân chủ Hong Kong chia rẽ nội bộ sâu sắc.
Chính trong hoàn cảnh đó, một tiếng kèn tập kết khác vang lên: chủ nghĩa bản thổ Hong Kong (localism).
(Kỳ 2)
Nghiên cứu lịch sử phong trào dân chủ Hong Kong cho chúng ta thấy rằng công cuộc nuôi nấng tinh thần dân chủ tại Hong Kong thường gắn liền với công cuộc định hình và vun đắp bản sắc/căn tính dân tộc (national identity) của chính người dân Hong Kong.
Thế hệ những người hoạt động dân chủ đầu tiên của Hong Kong trong những năm 1980 chọn một căn tính nửa sắc tộc nửa công dân.
Họ tự xem mình là người Trung Quốc về sắc tộc, nhưng họ lại thích thực hành dân chủ kiểu Anh (trực tiếp bầu ra người lãnh đạo khu vực, tự làm luật quản lý xã hội) và không sùng bái chủ nghĩa cộng sản như người dân Trung Hoa lục địa.
Theo đó, họ tạo ra một tiếng kèn tập kết, một ngọn cờ cho phong trào dân chủ Hong Kong dựa trên chủ nghĩa yêu nước dân chủ.
Tới cuối thập niên 2000, do thất bại của phong trào dân chủ Hong Kong trong việc mở rộng dân chủ trong giai đoạn hậu thuộc địa, tiếng kèn tập kết dựa trên chủ nghĩa yêu nước dân chủ này dần yếu đi và không còn tập hợp được phong trào dân chủ Hong Kong nữa.
Các nghiên cứu của Veg (2017) và Kaeding (2017) về phong trào dân chủ Hong Kong cho thấy một tiếng kèn tập kết mới đang vang lên: Chủ nghĩa bản thổ (localism).
Nguồn gốc chủ nghĩa bản thổ (localism) Hong Kong
Chủ nghĩa bản thổ Hong Kong có một gốc gác khá hiền hòa: phong trào bảo vệ các di tích lịch sử địa phương.
Khi Hong Kong bị cuốn vào cơn lốc phát triển địa ốc thời hiện đại đầu những năm 2000, ngày càng có nhiều các tòa nhà, địa điểm di tích lịch sử từ thời thuộc địa có nguy cơ bị phá bỏ.
Nhiều người Hong Kong không muốn rũ bỏ quá khứ dễ dàng như vậy. Họ tập trung thành những hội nhóm dân sự chuyên đi vận động bảo vệ các tòa nhà cổ và các địa điểm có giá trị lịch sử. Họ chống lại các doanh nghiệp địa ốc khổng lồ của Hong Kong, những kẻ có đủ tiền để mua truyền thông và ảnh hưởng đến chính quyền.
Một trong những nhóm nổi bật nhất là nhóm Bản Thổ Hành Động (Local Action -本土行動) bao gồm các trí thức, nhà báo và các sinh viên hoạt động xã hội. Các hoạt động tích cực của nhóm này khiến cho khái niệm bản thổ dần xuất hiện nhiều hơn trong công luận Hong Kong.
Sang đến năm 2008, một giới hoạt động quan tâm đến các vấn đề bản thổ đã hình thành bao gồm nhiều trí thức và nhà báo có tiếng. Họ cùng phối hợp xuất bản một tờ tạp chí mang tên Bản Thổ Luận Thuật (Journal of Local Discourse – 本土論述).
Mục đích của tạp chí này là cổ vũ việc bảo vệ các di tích lịch sử, vận động chống lại “bá quyền” của giới đầu tư địa ốc Hong Kong, và phơi bày các câu kết thông đồng giữa giới tài phiệt địa ốc với chính quyền Hong Kong.
Tờ Bản Thổ Luận Thuật cùng một số diễn đàn khác trên mạng Internet trở thành những diễn đàn mở cho người dân Hong Kong chia sẻ, thảo luận và tranh luận rộng rãi về chủ đề bản thổ: người Hong Kong nên đối xử thế nào với các di sản lịch sử của mình, bao gồm cả các di sản thừa hưởng từ thời thuộc địa Anh?
Xuất phát từ các di sản vật thể như tòa nhà, bến cảng cổ, dần dần các tranh luận về chủ đề bản thổ của người Hong Kong mở rộng sang các di sản phi vật thể: văn hóa địa phương, văn hóa chính trị.
Các hoạt động tranh luận, tìm hiểu sâu về các di sản lịch sử này giúp cho người Hong Kong ngày càng nhận ra căn tính địa phương (local identity) xuất phát từ lịch sử riêng của Hong Kong khác biệt với căn tính địa phương của người dân Trung Hoa đại lục như thế nào.
Người biến các tranh luận về bảo tồn di sản lịch sử và căn tính địa phương này thành chủ nghĩa bản thổ (localism) – như một tư tưởng chính trị – là một nhà dân tộc học người Hong Kong có gốc gác di dân đại lục. Ông tên là Trần Vân Căn (Chin Wan-kan).
Năm 2011, Trần Vân Căn tự xuất bản một cuốn sách nêu triết lý riêng của ông về Hong Kong như một thành bang (Hong Kong as a city-state).
Triết lý này cho rằng Hong Kong là một thành bang với căn tính riêng, tách biệt với Trung Hoa lục địa. Trần Vân Căn cổ vũ cho việc Hong Kong phải vùng thoát khỏi ảnh hưởng kinh tế – chính trị của Bắc Kinh, và người Hong Kong phải ưu tiên các quyền lợi của chính người Hong Kong.
Từ quan điểm triết lý đó, Trần Vân Căn cũng công kích mục tiêu “dân chủ hóa toàn Trung Hoa” của những người hoạt động dân chủ thuộc thế hệ những năm 1980. Ông cho rằng Hong Kong cần tự dân chủ hóa chứ không thể chờ đợi Trung Hoa đại lục.
Trong một bài viết trên tờ Bản Thổ Luận Thuật năm 2012, Trần Vân Căn giải thích lý thuyết thành bang Hong Kong của mình từ lăng kính thuộc địa hóa (colonization).
Ông tranh luận rằng Hong Kong có một nền văn hóa riêng biệt hình thành từ hỗn hợp các ảnh hưởng Trung Hoa cổ điển và ảnh hưởng phương Tây. Văn hóa đó khác biệt với văn hóa Trung Hoa đại lục hiện đại.
Chính phủ Bắc Kinh là một thế lực mới đang tìm cách thuộc địa hóa Hong Kong bằng cách dần dần xóa đi văn hóa riêng biệt đó của Hong Kong và đồng hóa người Hong Kong thành người Trung Hoa đại lục.
Không như những kẻ đế quốc thực dân Anh cũ, nhà cầm quyền Bắc Kinh không có văn hóa ủng hộ dân chủ và tôn trọng luật pháp. Trong khi đó, văn hóa ủng hộ dân chủ và tôn trọng luật pháp qua lịch sử đã ăn sâu vào bản tính của người dân Hong Kong.
Theo đó, chính Bắc Kinh là mối hiểm họa lớn nhất đe dọa xóa bỏ căn tính bản thổ của người dân Hong Kong. Mất căn tính bản thổ đó, người dân Hong Kong cũng đồng thời mất luôn những quyền lợi kinh tế và chính trị quan trọng.
Nạn người Trung Hoa đại lục di dân tràn lan sang Hong Kong đã là một chủ đề nóng trên công luận từ trước đó. Ông Trần Vân Căn chất vấn: những người di dân mới đó có chấp nhận ủng hộ dân chủ, tôn trọng luật pháp như người Hong Kong không?
Tình trạng di dân tràn lan đó buộc bản thân mỗi người Hong Kong phải xem lại các nguyên tắc về quyền công dân của cộng đồng mình, và phải tự ý thức được rằng họ là những công dân của một thành bang riêng biệt có truyền thống văn hóa chính trị đặc thù. Các công dân của thành bang đó phải có quyền tự chủ và tự trị theo đúng văn hóa chính trị bản thổ.
Trần Vân Căn đẩy tranh luận đi xa hơn, bằng cách nhấn mạnh rằng quyền lợi của người Hong Kong và quyền lợi của “chính quyền thực dân mới” Trung Quốc đang đi ngược nhau: các chính sách hòa nhập kinh tế và đồng hóa xã hội của chính quyền Trung Quốc đang chỉ làm lợi cho người dân Trung Hoa đại lục.
Các ý tưởng từ bài viết trên Bản Thổ Luận Thuật của ông Trần Vân Căn nhanh chóng được lan truyền rộng rãi trên mạng Facebook tại Hong Kong trong năm 2012.
Sau đó, các ý tưởng này được hào hứng tiếp nhận và được liên tục áp dụng, diễn giải lại bởi nhiều hội nhóm cổ vũ tinh thần bảo vệ bản thổ Hong Kong vốn cũng đang mọc lên như nấm trong cùng thời kỳ.
Có thể hiểu tại sao các ý tưởng của Trần Vân Căn lan rộng và có sức ảnh hưởng lớn như thế.
Thực tế là Hong Kong của những năm đầu thập niên 2010 đang phải đối mặt với một loạt các vấn đề “cơm áo gạo tiền” có nguyên nhân từ người dân Trung Hoa đại lục: tình trạng người đại lục nhập cư tràn lan tranh giành công việc và chỗ ở với người dân địa phương; tình trạng người đại lục sang Hong Kong sinh con, hưởng trợ cấp xã hội nhưng không đóng góp gì cho địa phương; tình trạng người đại lục mượn cớ du lịch sang Hong Kong mua hàng hóa hàng loạt để mang về đại lục bán, dẫn đến việc khan hiếm hàng hóa ở Hong Kong; giá thuê mua bất động sản ở Hong Kong tăng chóng mặt do đầu tư đến từ Trung Hoa đại lục.
Trong khi đó, chính quyền cộng sản Bắc Kinh không chỉ hài lòng với việc chi phối nền chính trị và truyền thông của Hong Kong.
Năm 2011, dưới sức ép từ Bắc Kinh, chính quyền Hong Kong đưa ra đề xuất thay đổi chương trình giáo dục để tiến tới việc đề cao một thứ “giáo dục ái quốc” (patriotic education) tán dương chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân tộc theo quan điểm của Bắc Kinh.
Vừa bị di dân Trung Hoa đại lục bủa vây trong cuộc sống hằng ngày, vừa bị chính quyền Trung Quốc bủa vây trong cả chính trị, kinh tế, lẫn giáo dục, một cảm giác bất an do bị đè nén và chèn ép đã hình thành trong cộng đồng người dân Hong Kong bản địa.
Chủ nghĩa bản thổ Hong Kong xuất phát từ các ý tưởng của Trần Vân Căn đã giúp nhiều người dân Hong Kong gọi tên được cái cảm giác bị đè nén và chèn ép đó: họ đang bị chính quyền Trung Quốc đồng hóa bằng nhiều cách.
Để thoát khỏi sự đồng hóa đó, họ phải tìm về một bản sắc/căn tính dân tộc dựa trên bản thổ Hong Kong, dựa trên gốc gác lịch sử thuộc địa đặc trưng của vùng đất nơi họ sinh sống.
Chủ thuyết bản thổ Hong Kong của Trần Vân Căn cũng đã đưa ra một căn tính dân tộc như thế: Dân tộc Hong Kong là những công dân Hong Kong ủng hộ dân chủ, tôn trọng luật pháp, tích cực tham gia bảo vệ và dựng xây cộng đồng mình.
Tác động của chủ nghĩa bản thổ (localism) tới phong trào dân chủ Hong Kong
Bản chất chủ nghĩa bản thổ Hong Kong không hề hoàn toàn tốt đẹp.
Đã có nhiều phân tích cho thấy nó mang các mầm mống của tinh thần bài ngoại (xenophobia), của chủ nghĩa sô-vanh hiếu chiến với người ngoại quốc, và của thuyết trọng nội khinh ngoại (nativism) xem người Hong Kong về bản chất là cao quý hơn người dân Trung Hoa lục địa.
Tuy nhiên, nhìn nhận được sức mạnh tập hợp ủng hộ quần chúng của chủ nghĩa bản thổ, giới hoạt động dân chủ thế hệ trẻ của Hong Kong đã biết “lựa cơm gắp mắm”, chọn lọc các yếu tố tích cực nhất của chủ nghĩa bản thổ trong khi từ chối các yếu tố tiêu cực nhất.
Từ năm 2012, giới hoạt động chính trị trẻ của Hong Kong bắt đầu nhiệt tình tiếp nhận và tranh luận chủ nghĩa bản thổ của Trần Vân Căn.
Nhiều người trong số đó trở thành những nhà hoạt động sinh viên và nhà hoạt động dân chủ tham gia lãnh đạo phong trào Dù Vàng diễn ra từ tháng Chín đến tháng Mười Hai, 2014.
Không phải là tình cờ khi trước đó, vào tháng Hai, 2014, tờ tạp chí Undergrad của Liên đoàn Sinh viên Đại học Hong Kong cho xuất bản một số chuyên đề về vận mệnh của dân tộc Hong Kong (“The Hong Kong nation/people: deciding its destiny”).
Trong số chuyên đề đó, các tác giả – những sinh viên đại học tuổi còn đôi mươi – đã mạch lạc thảo luận và áp dụng thuần thục các khái niệm xã hội học mà bạn đọc đã được làm quen từ bài trước: thuyết “cộng đồng tưởng tượng” của Benedict Anderson và các khái niệm căn tính sắc tộc/căn tính công dân của Anthony D. Smith.
Họ kết luận:
Cái quan điểm xem người Hong Kong là người Trung Quốc vì có chung nguồn gốc sắc tộc không còn sức nặng nữa.
Cả xã hội Hong Kong đang tự tái tạo lại (reconstructing) một căn tính Hong Kong mới, dựa trên nền tảng xã hội dân sự (civil society) mạnh mẽ của Hong Kong, và dựa trên một chủ thể tính (subjectivity) mà người dân Hong Kong cùng chia sẻ.
Khi tái tạo lại căn tính Hong Kong đó, người dân sẽ tránh đi vào lối mòn chủ nghĩa dân tộc phân biệt chủng tộc.
Người dân Hong Kong sẽ xác định căn tính của mình không phải bằng máu mủ màu da, mà bằng các giá trị chung (values), bao gồm tinh thần dân chủ (democracy).
Chủ nghĩa dân tộc của người Hong Kong sẽ là một chủ nghĩa dân tộc mang tính công dân (civic nationalism).
Phong trào Dù Vàng diễn ra vài tháng sau đó đã được các nhà nghiên cứu xem là một phong trào huy động cả xã hội Hong Kong cùng khẳng định lại căn tính của mình.
Căn tính đó là của một cộng đồng công dân (civic community) đang đoàn kết cùng đòi quyền tự quyết (self-determination) thông qua quyền phổ thông đầu phiếu để bầu ra người lãnh đạo.
Một phiên bản chủ nghĩa bản thổ tích cực đã trở thành một tiếng kèn tập kết mới cho phong trào dân chủ Hong Kong vốn đang hụt hơi và mất phương hướng:
“Chúng ta là dân tộc Hong Kong, có truyền thống hoạt động công dân với tinh thần dân chủ. Chúng ta đang đấu tranh vì một Hong Kong tự chủ và dân chủ”.
Một bản sắc/căn tính dân tộc mới đã được lựa chọn ở đây: cái căn tính dân tộc dựa trên sắc tộc (ethnic national identity) dính dáng đến Trung Hoa đã được thay thế bằng một căn tính dân tộc dựa trên quyền và nghĩa vụ công dân (civic national identity). Mục tiêu dân chủ hóa cũng đã được chuyển về Hong Kong, thay vì cả nước Trung Quốc.
Theo các phân tích của Veg (2017) và Kaeding (2017), các đảng chính trị mới do các nhà hoạt động sinh viên, những lãnh đạo trong phong trào Dù Vàng thành lập để tranh cử vào Hội Đồng Lập Pháp năm 2016, đều là những đảng phái theo đuổi chủ nghĩa bản thổ (localist). Ví dụ như đảng Demosisto của các nhà hoạt động Joshua Wong (Hoàng Chi Phong) và Nathan Law.
Trong cuộc bầu cử năm 2016, các ứng cử viên theo chủ nghĩa bản thổ giành được đến 19% số phiếu bầu từ người dân Hong Kong. Việc này xác nhận các lực lượng theo chủ nghĩa bản thổ đã trở thành một thế lực “có số má” trong chính trường Hong Kong.
Hiện các ứng cử viên mang tư tưởng bản thổ đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2016 đều đã bị chính quyền Hong Kong tước tư cách dân biểu hồi đầu năm 2017 do “tuyên thệ không đúng cách”.
Tuy nhiên, vẫn có nhiều dấu hiệu từ xã hội Hong Kong cho thấy chủ nghĩa bản thổ sẽ tiếp tục là tiếng kèn tập kết vang vọng của phong trào dân chủ Hong Kong.
Một kết quả khảo sát dân ý của trường Đại học Hong Kong năm 2018 cho thấy có đến 83% người dân Hong Kong được hỏi tự nhận họ là “người Hong Kong”, trong khi chỉ có 56,3% tự nhận là “công dân nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa”.
Khoảng hai triệu người được cho là đã xuống đường biểu tình chống Dự Luật Dẫn Độ hôm 16 tháng Sáu, 2019.
Trong số đó, có bao nhiêu người ủng hộ chủ nghĩa bản thổ Hong Kong? Hy vọng rồi sẽ có một kết quả khảo sát dân ý khác cho chúng ta biết điều đó.
Phùng Anh Khương