Phạm Minh-Tâm
Một năm cũ đã qua đi. Một năm mới lại đến để cộng thêm vào thành con số 44 năm cho nhiều người Việt-Nam đang sống đời vong-gia thất-thổ. Để nghĩ hoài, nghĩ mãi vẫn không ra thân-phận mình khi cứ thêm một năm, kiếp tha-hương sầu thêm một nỗi:
Quê-hương hai tiếng buồn vời-vợi,
Nào những ai cùng chung nỗi đau?
Trong cái khoảng thời-gian giao mùa giữa mùa đông năm cũ và mùa xuân năm mới theo Âm-lịch này, người Việt-Nam gọi tên bằng âm-hưởng rất trịnh-trọng pha lẫn trong ý-thức về một sự gì đó rất thiêng-liêng…là đêm giao-thừa. Chẳng vậy mà ngay trong tôn-giáo cũng có lễ-nghi nặng tính-chất tâm-linh. Các đình chùa miếu mạo thì cúng giao-thừa; các nhà thờ có Thánh-lễ giao-thừa…Và chắc-chắn dù là tôn-giáo nào thì đây chính là giờ phút thiêng-liêng để nặng lòng cầu nguyện. Hơn bao giờ hết, gần trăm triệu người Việt-Nam cần chung dâng lên Quốc-tổ lời cầu nguyện của mỗi người xin phù-trợ cho quốc-thái dân-an. Cũng đồng thời cùng nhau đọc lại trang sử về mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, hầu có thể hâm nóng lại chút hào-khí của một mùa xuân dân-tộc, oai-hùng đánh đuổi ngoại-xâm phương bắc, giành lại độc-lập, tự-do cho dân-tộc.
Tết năm 2019 này, người Việt-Nam chúng ta cùng đón mùa xuân Kỷ Hợi, cùng ăn Tết giữa trăm mối ngổn-ngang theo nhiều lẽ phức-tạp. Sự phức-tạp đau xót của Đất nước, của Quê-hương, của Tổ-quốc hoặc gom chung lại là nỗi buồn vời-vợi của Mẹ Việt-Nam nếu mỗi con dân Việt-Nam không còn thiết-tha gì đến Mẹ, không nghĩ rằng từng người Việt-Nam hôm nay, cho dù ở trong nước hay ngoài nước, đều có trách-nhiệm trước đại-nạn gia-tài của Mẹ bị phá-sản.
Nói đến trách-nhiệm, người viết không hiểu sao là hàng ngày cứ mở “internet” ra là nhận được quá nhiều “e-mail” rộn-ràng chuyển tới chuyển lui toàn những tin-tức, những bài viết…mang nội-dung kiểu…biết rồi, khổ lắm nói mãi…mà không biết chán. Có những điạ-chỉ xuất hiện mấy chục lần trong ngày, chuyển đủ loại tin kiểu “từ thành đến tỉnh” mà không hiểu người chuyển có đọc nội-dung không hay chỉ làm công việc máy-móc là chuyển thôi và có lẽ người đó nghĩ rằng làm như vậy để chứng-tỏ mình cũng ưu-thời mẫn-thế, cũng đang góp phần trả món nợ với Quê-hương. Đấy cũng là một cách đấu-tranh và tranh-đấu mà nếu có trâu đánh cũng khỏi phải tránh đi đâu cả.
Trước hết phải kể đến những nội-dung chửi Việt-cộng bán nước hại dân, chê-bai và miệt-thị các lãnh-đạo của họ ngu đần, dốt nát và đủ thứ tồi-tệ, nham-nhở, vô đạo…mà có thể không bao giờ người chuyển khựng lại vài ba phút để băn-khoăn về những nội-dung được cho là “đắc sách” ấy…Ờ mà sao nó dốt nát như vậy, nó tệ hại đến thế mà nó giành được quyền làm chủ đất nước. Nó đuổi được hết những người giỏi, người hay như mình đi để chiếm-cứ từ Miền Bắc đến Miền Nam…là sao nhỉ?
Chẳng phải hàng triệu người Miền Bắc khi dắt-díu nhau vào Nam hồi năm 1954 là đã quá biết “nó” rồi nên mới dứt-khoát ra đi sao? Vậy thì giờ này vẫn cứ chỉ chửi nó suông có là nhàm tai nhau không?
Nhớ lại cũng vào một thuở gian-nan trong quá-khứ, bỗng chốc cả một dân-tộc bàng-hoàng nhìn mảnh giang-sơn khốn-khổ của mình bị đem ra mổ xẻ, không biết ngày mai sẽ ra sao thì ông Ngô-Đình Diệm đứng ra nhận cái chức Thủ-tướng oan-khiên của một hậu-trường “sân-khầu về khuya”, mà đào kép nào cũng muốn nhảy ra sắm tuồng với kịch-bản tự-biên và vai chính tự-diễn.
Trong bài diễn-văn đọc tại Hà-nội ngày 03-8-1954, nói chuyện với đồng-bào Miền Bắc về việc di-cư, Thủ-tướng Ngô-Đình Diệm tha-thiết kêu gọi đồng-bào hãy vào Nam để cùng ông xây-dựng Đất Nước và chống cộng-sản. Và gần một triệu người đã ra đi vào Miền Nam không hẳn chỉ là tỵ-nạn cộng-sản, mà còn là chung mang mục-đích xây-dựng nửa miền Đất Nước còn lại được vững mạnh trong tinh-thần quốc-gia, tự-do và dân-chủ. Là chí-quyết cùng nhau góp sức, chung vai bằng tinh-thần dân-tộc tự-quyết, tự-cường.
Rồi xây ra sao không thấy, nhưng phá thì sách vở còn ghi…với hàng loạt các cuộc chính-biến, đảo-chính, chỉnh-lý…mà lần nào cũng có một nhân-vật tình-báo của Hoa-kỳ ngồi cầm trịch.
Tiếp đến là các nội-dung phơi bày hành-sự độc-ác của Trung-cộng… Các lời ăn tiếng nói của tổng-thống Hoa-kỳ Donald Trump tại nơi này nơi kia … Các phản-ứng hay quyết-định của một tổ-chức, một quốc-gia nào đó trên thế-giới chỉ-trích nhà cầm quyền cộng-sản Việt-Nam…cũng được sôi-nổi chuyển đi. Cứ như tất cả đều sẽ làm cho chế-độ cộng-sản hiện nay ở Việt-Nam sẽ chết, Trung-cộng cũng sẽ chết và các phần lãnh-thổ, lãnh-hải đã mất đi sẽ lấy lại được. Nhiều tin-tức thật giả bất-minh còn được chuyển đi kèm theo lời phụ-chú reo vui như tin mừng theo chủ-quan của người chuyển khi nước này, quốc-gia nọ thay đổi hình-thức bang-giao với nhà cầm quyền Việt-Nam…Vân-vân và vân-vân.
Thương ôi, cứu một đất nước, một dân-tộc đang bên bờ vực mất còn là đơn-giản vậy sao? Là không cần động móng tay, là không bị mất đồng xu cắc bạc nào, một hy-sinh nào ngoài các tin chuyển qua chuyển lại mà xong được sao? Là do những người cho dù có là lãnh-tụ quyền-uy thì cũng là ngoại-nhân ở các chân trời góc biển xa-xôi xúm lại thương lo cho đất nước mình hay sao?
Chưa hết, cùng trong “luồng” là những bài đấm đá, bươi móc đời tư của người này, tổ-chức nọ trong “cộng-đồng hải-ngoại” với những tựa đề giật gân …X, Y, Z là ai…hay lột mặt nạ ông A bà B chị C anh H nào đó…để xem như cả người viết lẫn người chuyển đều là “người quốc-gia chân-chính”. Thậm chí còn tỏ lộ tinh-thần chống cộng cao độ bằng tác-phong không thua gì cộng-sản. Trước 1975, văn-phong báo-chí tại Miền Nam viết lách bằng chữ và nghĩa có chừng mực, có văn-hoá; cho dù nói về đối-phương, về kẻ thù. Sau ngày 30-4-1975, người Miền Nam ngỡ-ngàng khi phải nghe, phải đọc cách nói cách viết xô-bồ và hạ-cấp của những người phía bắc vào chiếm-dụng Miền Nam với cách ăn nói và viết không cần lách của các người “bên thắng cuộc”. Mang danh là cầm bút mà cứ như cầm cái chổi cùn đứng “chửi mất gà”, xỉa-xói “tên” này “tay” kia và có cả “thằng cha”, “con mẹ”. Bây giờ ở hải-ngoại cũng không khác gì, cũng dùng chữ đúng kiểu “dân chơi thứ thiệt” với cách dùng chữ mà có nhiều người dù chỉ nhắc lại cũng ngại miệng…
Tất cả đấy là chống cộng sao? Chống kiểu này cộng-sản mạnh thêm vì cộng-đồng càng ngày càng nát, cứ lo “lột mặt nạ” nhau đến độ chẳng còn phân-biệt mặt nào với mặt nào nữa.
Khi xưa, vua nhà Trần triệu-tập Hội-nghị Diên-hồng thành-công để ngày nay còn ghi trong sử sách như một gương sáng về phẩm-cách dân-tộc tự-quyết, có lẽ phần lớn vì không có người đặt câu hỏi…Trần Nhân Tôn là ai…hay lột mặt nạ Trần Thủ Độ và truy tìm lai-lịch của Trần Quốc Tuấn trong một triều-đại gia-đình trị. Trong hoàn-cảnh sống cách đây 230 năm, đoàn quân của Nguyễn Huệ đi từ Tây-sơn ra Bắc-hà chắc-chắn chỉ có hai lực-lượng dân-tình là trực-tiếp tham-gia và đứng nhìn theo hỗ-trợ dù chỉ từ củ khoai, cái bắp…chứ không có “lực-lượng” thứ ba đặt vấn-đề hay các phe nhóm chống đối và phê-phán. Hai chữ “toàn dân” đoàn-kết chung lòng cứu nước là phải hiểu theo cung-cách này chứ không bao giờ và ở nước nào có điều-kiện mọi người dân cùng “vung gươm ra sa-trường” cả.
Đệ-nhất Cộng-hoà sụp đổ, Đệ-nhị Cộng-hoà tan-tác cũng vì ngoại-nhân, vì Miền Nam nhiều chính-kiến mà thiếu công-dân giáo-dục, mới ra cớ sự như hôm nay. Vậy mà giờ này, đã đến nông-nỗi cùng lưu-vong trong thân-phận tha-hương tỵ-nạn cộng-sản nhưng vẫn chưa bỏ được cái “ta” thì lấy đâu thành “chúng ta”. Như vậy mong gì có được đạo quân như xưa vua Quang Trung đã có để lên đường ra Bắc dẹp giặc cho có chiến-thắng Đống-đa. Mong gì lòng yêu nước được đặt lên trên lòng yêu bản-thân của chủ-quan, của phe nhóm, của thiên-kiến cá-nhân.
Quá-khứ đau-thương của quê-hương còn in nhiều vết hằn từ các bàn tay ngoại-nhân cào xé. Các hiệp-định hay thoả-ước cho dù ký-kết trên giấy trắng mực đen vẫn không khả-tín nếu mình không đòi điều-kiện tự-quyết cho mình, cứ để mặc ai muốn làm sao cũng được. Càng ngày, càng nhiều người Việt-Nam vẫn còn yêu nước kiểu anh Đại-lãn chờ sung.
Sau khi Pháp thua trận ở Điện-biên-phủ thì Hội-nghị Genève được họp bàn cho một hiệp-ước quân-sự chỉ để giải-quyết việc đình-chiến giữa hai bên đang tham-chiến mà thôi; hoàn-toàn không có quyết-định được gì về chính-trị. Đồng thời, chính những nhân-vật tai mắt của các cường-quốc Anh, Pháp, Mỹ cùng hứa-hẹn sẽ không đặt vấn-đề chia cắt lãnh-thổ, nhưng cuối cùng Việt-Nam vẫn bị chia hai là đây :
…Ngày 25-4-1954, ông Bảo Đại cho công bố một thông cáo phản đối bất cứ đàm phán nào dẫn tới việc chia cắt đất đai…Ngoại trưởng Pháp, ông Georges Bidault còn cam kết bằng văn bản với ông Bảo Đại rằng mục đích của Pháp là vãn hồi hoà bình tại Đông Dương chứ không phải đi tìm một giải pháp chính trị vĩnh viễn…Cam kết này cũng được ông Bidault thông báo cho đại diện Mỹ ở Geneva là Bedell Smith và Ngoại trưởng Anh Anthony Eden. Và vấn đề chống phân chia lãnh thổ được cả Mỹ lẫn Anh ủng hộ…” (Nguyễn Tiến Hưng. Khi Đồng Minh nhảy vào, trang 155-156).
Trong Hồi-ký chính-trị Con Rồng Việt Nam, Quốc-trưởng Bảo-đại cũng xác-nhận: “Ngày mùng 3 tháng 5, tại Sài-gòn, Đại sứ Dejean đã tuyên bố, theo chỉ thị của chính phủ: Chính phủ Pháp không có dụng ý tìm giải pháp về cuộc chiến Đông Dương trên căn bản một sự chia cắt nước Việt Nam…Những đảm bảo nhất định đã được Bộ trưởng Ngoại giao Pháp trao cho Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Quốc Định ngày 25-4 vừa qua và quyết định ấy được xác nhận ngày 1 tháng 5…(Sách đã dẫn, trang 508).
Tóm lại, dân-tộc và đất nước chỉ có được mùa xuân tươi đẹp bằng chính tay những người dân của đất nước chịu ra tay cuốc đất trồng hoa để tô-điểm, chứ không phải ông tổng-thống Trump đem đến từ Hoa-kỳ hay nhờ Trung-cộng bị thất-thế trên trường quốc-tế hoặc tuyên-bố của bất kỳ ông lãnh-tụ nào khác ở bên ngoài hai chữ Việt-Nam. Một khi người Việt-Nam nào cũng hiểu được như thế thì lo gì đất trời Việt-Nam không có được mùa xuân như Mùa Xuân Kỷ-dậu.
Viết cho dịp đầu năm Kỷ-hợi 2019
Phạm Minh-Tâm