Công hàm trao đổi dự án viện trợ không hoàn lại “Tăng cường năng lực kiểm nghiệm cho Trung tâm Kiểm nghiệm kiểm chứng và Tư vấn chất lượng nông lâm thủy sản để đảm bảo an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản” là văn kiện duy nhất ‘có tiền’ được ký kết sau cuộc gặp tay đôi giữa Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, lồng trong đợt tham dự Hội nghị cấp cao hợp tác Mekong – Nhật Bản lần thứ 10 vào tháng Mười năm 2018 của ông Phúc.
Nhiều văn bản còn lại được ký giữa hai bên chỉ là dạng bản ghi nhớ – cái mà ở Việt Nam có vô số kể và rất nhiều lần đã cho thấy là chẳng có giá trị triển khai nào sau những chuyến công du phương Tây của giới chóp bu Việt Nam.
Nhưng kết quả đáng thất vọng nhất là vào lần này, Thủ tướng Shinzo Abe đã chẳng có một lời hứa hẹn, và càng không có sự cam kết nào về việc ‘Nhật Bản sẽ tăng cường hỗ trợ ODA cho Việt Nam’ hoặc ‘Nhật Bản sẽ dành cho Việt Nam nguồn vốn ODA ưu đãi’, bất chấp Thủ tướng Phúc đã phải một lần nữa đề nghị “Nhật Bản tăng cường hỗ trợ vốn ODA ưu đãi hơn cho Việt Nam”.
Những ‘chính khách đang lên’
Không hiểu sao, Nguyễn Xuân Phúc không có nhiều ‘duyên’ với Nhật, nhất là về chuyện ‘xin tiền’.
Vào tháng Sáu năm 2016, Nguyễn Xuân Phúc – khi đó vừa nhận chức vụ thủ tướng Việt Nam, được xem là ‘chính khách đang lên’ và hẳn rất muốn chứng tỏ vai trò đối ngoại của mình trước con mắt giới chính khách và giới quan sát quốc tế, cũng như trước bộ sậu không kém thua ông ta về tham vọng chính trị và mang đặc tính bỉ bôi kèn cựa trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam – đã đi Nhật để dự Hội Nghị G7 mở rộng. Nhưng kết quả của chuyến đi này thật đáng thất vọng đối với ông Phúc và với cả giới chóp bu Việt Nam: đã không có bất kỳ một hứa hẹn hay cam kết nào từ phía Nhật về viện trợ cho Việt Nam.
Thậm chí, Nguyễn Xuân Phúc còn ‘kém duyên’ hơn cả Trần Đại Quang – quan chức được xem là ‘nguyên thủ quốc gia’ vừa phải về với tổ tiên và ngay lập tức đã được Tổng bí thư Trọng ‘tiếp quản’ cái ghế chủ tịch nước – trong hoạt động xin viện trợ ở Nhật.
Vào cuối tháng Năm năm 2018 – nghĩa là 4 tháng trước khi chết, mặc dù trong tình trạng bệnh tật trầm trọng nhưng Trần Đại Quang vẫn có một chuyến công du đến Nhật và đạt được một kết quả nhỏ nhoi về xin viện trợ: phía Nhật cung cấp thêm khoản viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam trị giá 16 tỉ yên, tương đương 142 triệu USD, cho dự án nâng cao năng lực đào tạo nghề. Dù rằng con số 16 tỷ yên trên chỉ bằng 10% số 160 tỷ yên mà Nhật Bản hỗ trợ ODA cho Việt Nam hàng năm, trong 5 tính theo năm tài chính Nhật Bản 2012-2016, trung bình mỗi năm.
Phương án “ăn sẵn”
Nhật Bản là quốc gia tỏ ra hào phóng nhất trong chính sách cung cấp viện trợ ODA cho Việt Nam. Từ năm 1992 khi cơ chế ODA được Nhật nối lại với Việt Nam, cho tới nay Nhật đã cung cấp cho Hà Nội khoảng 25 tỷ USD. Trong 5 tính theo năm tài chính Nhật Bản 2012-2016, trung bình mỗi năm, Nhật Bản hỗ trợ ODA cho Việt Nam là 160 tỷ yên (32.500 tỷ đồng) theo hình thức vốn vay, 2,3 tỷ yên (467 tỷ đồng) theo hình thức viện trợ không hoàn lại và 8,7 tỷ yên (1.760 tỷ đồng) theo hình thức hợp tác kỹ thuật.
Ngay vào thời gian những năm 2015 và 2016 khi các chủ nợ lớn nhất của Việt Nam là Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu đồng loạt tuyên bố Việt Nam không còn được vay tín dụng với lãi suất ưu đãi và thời gian ân hạn kể từ tháng Bảy, 2017, Nhật Bản vẫn “trung thành” với Việt Nam khi tiếp tục đều đặn rót vào nước này từ 1 – 1,5 tỷ USD hàng năm cho các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở.
Nhưng từ đầu năm 2017, viện trợ ODA của Nhật cho Việt Nam đã giảm dần.
2018, sau vài chục năm “vay mượn, vay mượn ồ ạt cho đến khi sụp đổ,” ngân sách Việt Nam đã biến thành một tổ mối đúng nghĩa: tỉ lệ nợ công/GDP vượt xa giới hạn nguy hiểm, còn cộng đồng tài chính quốc tế đang thẳng tay “cấm cửa” vay mượn ODA đối với chính thể mà ngay giới chuyên gia quốc tế còn rành rẽ một giai thoại dân gian: một chương trình an sinh xã hội của chính phủ Việt Nam nhận nguồn ODA có tên là ‘Chương trình 135’, nhưng khi tiền được phân bổ từ cấp cơ quan trung ương xuống cơ quan địa phương rồi đến tay người dân thì đã biến thành công thức ‘5 – 3 – 1’, tức những người khốn khổ nhất trong xã hội lầm than này chỉ nhận một phần quá nhỏ nhưng vẫn phải tự nguyện ‘cám ơn đảng và nhà nước ta’, cũng tự nguyện làm bình phong để giới quan chức có cớ ‘xóa đói giảm nghèo’ để xin ODA.
Từ nhiều năm qua, ODA đã trở thành một trong những quốc nạn về tham nhũng ở Việt Nam. Tỷ lệ thất thoát bình quân tại nhiều dự án ODA được đồn đoán khoảng 20 – 25%.
2018, sau vài chục năm nhận ‘lộc trời’, ODA đã trở thành một trong những bi kịch ‘vĩ đại’ nhất của chính thể Việt Nam.
Bi kịch đến nỗi mà vào một buổi sáng mùa thu năm 2017, Thủ tướng Phúc đã phải “đề nghị Ngân hàng thế giới tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam các khoản không hoàn lại để giảm tối đa làm chi phí vay vốn, tăng thành tố ưu đãi của các khoản vay” – cử chỉ xin tiền đầu tiên và hình như không còn quá chú tâm về lòng tự trọng kể từ ngày quan chức này phải lãnh trách nhiệm ‘đổ vỏ’ cho đời thủ tướng trước bị xem là ‘phá chưa từng có’ là Nguyễn Tấn Dũng…
Dường như giới quan chức chính phủ đang tính đến phương án “ăn sẵn”: thay vì phải đi vay mượn nhưng sẽ cột chặt thêm trách nhiệm phải trả nợ, cần cố gắng xin được viện trợ không hoàn lại mà sẽ không gắn với bất kỳ trách nhiệm thanh toán nào.
Và bi kịch đến mức mà vào cuối tháng Sáu năm 2018, cuộc gặp của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ với Bộ Tài chính Hoa Kỳ ở Washington đã khiến lộ ra một ‘bí mật quốc gia’ mà mấy năm qua giới quan chức Việt Nam cố tình giấu nhẹm: ông Huệ đề nghị Mỹ “mở lại kênh cho vay ODA và vay ưu đãi cho Việt Nam, tăng cường các chương trình viện trợ trực tiếp và gián tiếp thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án nhân đạo và hỗ trợ phát triển tại Việt Nam”.
Cũng có nghĩa là trong những năm gần đây, lượng ODA và viện trợ không hoàn lại được cấp từ Mỹ cho Việt Nam đã giảm về 0.
Nhưng Mỹ không phải là quốc gia duy nhất đặt Việt Nam vào trạng thái zero viện trợ, mà động thái này như thể ‘không hẹn mà gặp’ đã diễn ra phổ biến ở gần hết các nước cấp viện trợ cho Việt Nam, dẫn đến một phát hiện lớn mà ‘đảng và nhà nước ta’ đã không dám công bố trong suốt 4 năm qua: từ năm 2014 đến năm 2018, viện trợ ODA cho Việt Nam luôn cận kề với vạch 0.
Lại ‘tiết lộ bí mật quốc gia’
Đến lúc này, người ta đã có thể hiểu vì sao giới quan chức cao cấp Việt Nam đã tận dụng các sự kiện hội thảo quốc tế, các cuộc gặp song phương ở Hà Nội lẫn các chuyến công du nước ngoài để phát ngôn ‘xin tiền’ không biết mệt mỏi.
Nhưng cần nhìn nhận một sự thật mà có lẽ giới tuyên giáo đảng ở Việt Nam chẳng hề muốn đả động: những chuyến công du của người vừa chết là Trần Đại Quang và người còn sống là Nguyễn Xuân Phúc đến Nhật Bản diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đã bước vào năm suy thoái kinh tế thứ 10 liên tiếp, nợ xấu ngập đầu còn nợ công phi mã đến 210% GDP, ngân sách có nguy cơ cạn kiệt, trong lúc các kênh “ngoại viện” gần như đóng lại. Ngay cả Hiệp Định TPP mà giới lãnh đạo Việt Nam từng cố công trông đợi để được “tăng 25% GDP” cũng gần như chẳng có hy vọng gì để Việt Nam hưởng lợi lớn. Trong khi đó, một hiệp định khác – hiệp định tự do thương mại giữa Việt Nam và Liên Minh Châu Âu – cũng chưa đi tới đâu, cho dù đã được ký kết từ cuối năm 2015. Nghị Viện Châu Âu còn đang cân nhắc có nên thông qua việc triển khai hiệp định này hay không khi chính quyền Việt Nam vẫn thẳng tay đàn áp nhân quyền.
Sau vụ ‘tiết lộ bí mật quốc gia’ của Phó thủ tướng Vương Đình Huệ ở Mỹ, đề nghị “Nhật Bản tăng cường hỗ trợ vốn ODA ưu đãi hơn cho Việt Nam” của Thủ tướng Phúc đã khiến lộ thêm một sự thật trần trụi khác: sau khi hàng loạt tổ chức tín dụng quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển Á châu… đã ‘cấm cửa’ ODA ưu đãi (lãi suất thấp và thời gian ân hạn) đối với chính thể độc đảng ở Việt Nam, đến lúc này ngay cả quốc gia mà Hà Nội luôn vuốt ve ‘làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nhật’ không chỉ hạn chế cung cấp lượng ODA mà còn hạn chế cả tính chất ưu đãi của nó.
Nếu từ năm 2014, Việt Nam đã gần như trắng tay ODA, thì vào năm 2018 này, có thể xem là không còn ‘ODA ưu đãi’ nữa./.
Leave a Comment