Phạm Chí Dũng – VOA
Một tin rất xấu xảy đến với chính thể độc đảng ở Việt Nam vào giữa năm 2018: Hoa Kỳ lộ hẳn mục tiêu ‘đòi nợ’ qua cán cân thương mại Mỹ – Việt quá chênh lệch trong những năm qua.
Tự cắt 75% xuất siêu?
Ngày 21/5/2018, ông Jeffrey Gerrish, Phó Đại diện Thương mại Mỹ đã tiến hành một chuyến công du đầy ẩn ý đến Hà Nội và gặp một quan chức cao cấp phụ trách kinh tế của Việt Nam là Ủy viên bộ chính trị kiêm Phó thủ tướng Vương Đình Huệ.
Mặc dù báo đảng Việt Nam chỉ tường thuật sơ sài “ông Jeffrey Gerrish, Hoa Kỳ mong muốn đạt được các thoả thuận với Việt Nam liên quan tới các vướng mắc về nhập khẩu ô tô, thanh toán điện tử và quy định về đặt thiết bị quản lý dữ liệu người dùng Việt Nam tại Việt Nam trong dự thảo Luật An ninh mạng”, nhưng một số nhà quan sát kinh tế cho rằng nội dung chính mà Jeffrey Gerrish làm việc với Việt Nam sẽ là “san bằng thâm hụt thương mại” theo yêu cầu của Tổng thống Trump, nhằm buộc Việt Nam phải hạ mức thâm hụt thương mại xuống mức dưới 8 tỷ USD/năm.
Vào năm 2017, Việt Nam xuất sang Mỹ lượng hàng hóa tổng giá trị 41,6 tỷ USD nhưng chỉ nhập khẩu có 9,2 tỷ USD, nâng mức thặng dư thương mại lên con số 32,4 tỷ USD với Mỹ, gấp đến 160 lần so với giá trị xuất siêu chỉ 200 triệu USD vào năm 2001 – thời điểm mà Việt Nam mới ký với Mỹ Hiệp định thương mại song phương (BTA) đầu tiên.
Nếu con số 8 tỷ USD/năm đúng là đòi hỏi của Trump mà theo đó Việt Nam phải tự cắt giảm mức thâm hụt thương mại trong thời gian tới, có thể bắt đầu ngay trong năm 2018 này và sẽ phải giảm mạnh trong năm 2019, bi kịch xuất khẩu sẽ kéo theo bi kịch kinh tế và cũng là bi kịch ngân sách dành cho chế độ một đảng ở Việt Nam.
Con số xuất siêu chỉ có 8 tỷ USD/năm trên sẽ khiến giá trị xuất siêu của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ hụt đến 75% so với những năm trước, làm cho cán cân nhập siêu của Việt Nam từ các thị trường khác, đặc biệt từ Trung Quốc, tăng mạnh.
Vậy bức tranh quan hệ thương mại tổng thể giữa Việt Nam với các thị trường khác đang mang gam gì?
“Triển vọng phát triển còn tốt lắm”?
Đầu năm 2017 sau khi TPP gần như tan vỡ, Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng đã có một phát ngôn ấn tượng: “triển vọng phát triển còn tốt lắm”.
Nhưng làm thế nào “triển vọng phát triển còn tốt lắm” để “đất nước đi tới không gì cản nổi” – như một thể loại “tự sướng” từng ra rả vào thời chiến tranh, trong lúc tình hình các FTA (hiệp định thương mại tự do) với đa số các nước vẫn rơi vào tình thế bất lợi?
Cho dù Việt Nam vẫn luôn quảng cáo rằng chính thể này có đến 16 FTA, nhưng hiện trạng các FTA vẫn ngổn ngang, rất tương đồng với tình cảnh Việt Nam đã ký thỏa thuận với chẵn một tá đối tác chiến lược trên thế giới, nhưng trong ba vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014, Bãi Tư Chính năm 2017 và cũng Bãi Tư Chính năm 2018 đã chẳng có một đối tác chiến lược nào chìa tay giúp Việt Nam để tránh thoát bàn tay lông lá đe dọa của đối tác chiến lược lớn nhất là Trung Quốc.
Đến cuối năm 2016, Việt Nam đã ký kết, thực thi và đang đàm phán 16 FTA. Trong số này, có 10 FTA đã thực thi (sáu FTA trong số này với tư cách là thành viên ASEAN, bốn FTA còn lại với Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, và EEC). Hai FTA đã kết thúc đàm phán là TPP và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Bốn FTA đang đàm phán là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA ASEAN – Hồng Kông, FTA với Israel và với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA).
Nhưng chỉ có hai FTA của Việt Nam với Mỹ và châu Âu là còn xuất siêu được – lần lượt là hơn 30 tỷ USD và 25 tỷ USD mỗi năm. Còn thặng dư xuất siêu với Nhật bằng 0, trong khi ngay cả Hàn Quốc, tưởng là “dễ ăn”, nhưng Việt Nam lại phải nhập siêu đến 20 tỷ USD vào năm 2016 và gần 25 tỷ USD vào năm 2017.
Còn với Trung Quốc thì khỏi nói: con số nhập siêu chính ngạch lên đến 20 – 30 tỷ USD/năm, chưa kể phần tiểu ngạch khoảng 20 tỷ USD nữa, tổng cộng đến 40 – 50 tỷ USD nhập siêu mỗi năm dành cho Việt Nam.
Trong lịch sử buôn bán hai chiều với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam lại bị phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất. Từ nhiều năm qua, Trung Quốc đã trở thành thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỉ trọng khoảng 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Thói quen phụ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc đã trở nên quá khó bỏ. Nó không chỉ cột chặt giới doanh nghiệp nhỏ và vừa, mà còn xiềng xích giới quan chức “ăn dầy” của Việt Nam – những người có thẩm quyền ký hạn ngạch nhập hàng từ Trung Quốc. Tình thế càng trở nên nên khốn quẫn khi tại một số cuộc hội thảo về đầu tư, người ta cho biết giới doanh nghiệp Trung Quốc có thói quen chi dưới gầm bàn “thoáng nhất”!
Không cần nhắc lại, ai cũng biết giới quan chức Việt thuộc loại “ăn đủ” nhất trên thế giới.
Còn nhớ sau khi xảy ra vụ giàn khoan Hải Dương 981 vào giữa năm 2014, giới chuyên gia kinh tế Việt Nam bắt đầu phải bàn luận đến khía cạnh “kinh tế Việt Nam sẽ sống được bao lâu nếu không nhập khẩu từ Trung Quốc”. Trả lời câu hỏi này là lời tường thuật rất thành thật của nhiều doanh nghiệp ngành dệt may: nếu không được nhập nguyên vật liệu từ Trung Quốc, nhà máy của họ chỉ tồn tại được vài ba tháng!
Hiệu ứng “công bằng và đối ứng” của Trump
Tròn một tháng sau khi Phó Đại diện Thương mại Mỹ Jeffrey Gerrish đến Hà Nội ‘đòi nợ’, đến tháng Sáu năm 2018 Phó thủ tướng Vương Đình Huệ đã sang Washington và có một cuộc gặp quan trọng với Bộ Tài chính Mỹ.
Còn nhớ trong cuộc gặp Donald Trump – Nguyễn Xuân Phúc tại Mỹ vào tháng Năm năm 2017, không những không đề cập gì đến “Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ”, Trump lại xoáy vào một vấn đề cực kỳ khó chịu và khó khăn đối với phía Việt Nam: trong phần phát biểu ngắn gọn tại cuộc gặp song phương tại Nhà Trắng hôm 31/5/2017, Tổng thống Hoa Kỳ đã nhấn mạnh vấn đề giao thương và thâm hụt thương mại ‘lớn’ với Việt Nam, mà ông hy vọng sẽ ‘sớm được cân bằng’. Ngay trước đó, Bộ trưởng thương mại Hoa Kỳ cũng không bỏ quên vấn đề này trong cuộc gặp với Thủ tướng Phúc.
Sau đó, đúng vào ngày Lễ Tình Yêu 14 tháng Hai năm 2018 – tức tròn một năm sau thời điểm liệt Việt Nam vào danh sách 16 quốc gia “gây hại” cho nền kinh tế Mỹ, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dường như muốn bày tỏ “tình yêu” đối với chính thể độc đảng ở Việt Nam bằng cử chỉ “siết nợ” thông qua nội dung “hai nhà lãnh đạo cũng thảo luận về các vấn đề thương mại và cam kết sẽ tăng cường, mở rộng mậu dịch song phương công bằng và đối ứng”.
Ngay trong năm 2017 và đến đầu năm 2018 đã mở đầu bằng hàng loạt “điềm xấu” dành cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ: Bộ Thương mại Mỹ nâng tỷ lệ thuế đánh vào hai mặt hàng thép và tôm Việt Nam lần lượt là 53% và hơn 25%.
Riêng tôm – mặt hàng chủ lực xuất khẩu vào thị trường Mỹ – phải chịu thuế cao gấp 21 lần so với trước đây. Cộng hưởng với việc bị Liên minh châu Âu “rút thẻ vàng” đối với hàng hải sản Việt Nam và đang lấp ló “thẻ đỏ”, kim ngạch xuất khẩu của hải sản Việt Nam vào hai thị trường EU và Mỹ trong năm 2018 chắc chắn sẽ bị giảm sút phần nào, nếu không muốn nói là giảm đáng kể so với doanh số năm 2017, càng khiến rệu rã chân đứng của chế độ chính trị ở Việt Nam.
Nhưng vẫn chưa hết. Trump luôn là một ẩn số khó đoán định. Không hề ưu ái Việt Nam, vị tổng thống này đang trở thành trong những nhà chính trị thực dụng nhất trên thế giới.
Biện pháp áp thuế cao đối với thép và nhôm Việt Nam có thể chỉ là động tác ban đầu của Bộ Thương mại Mỹ nhằm thực thi quan điểm “công bằng và đối ứng” của Trump.
Dấu hỏi lớn là sau “công bằng và đối ứng” về thép, nhôm và tôm, Trump sẽ còn có thêm những chế tài thương mại nào đối với Việt Nam?
Việt Nam sẽ ‘năn nỉ’ Mỹ?
Một hệ quả rất không mong đợi đối với Việt Nam là nếu Mỹ “siết” các điều kiện thương mại như đánh thuế xuyên biên giới, dựng đứng hàng rào kiểm nghiệm chất lượng đối với hàng hóa Việt Nam mà trước đó cá basa, tôm, gạo đã trở thành “nạn nhân”, đồng thời ngưng trệ vô thời hạn Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ hoặc làm cho hiệp định này trở nên khó khăn hơn nhiều so với những năm trước, giá trị xuất siêu hàng năm của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tụt thê thảm.
Nguyễn Phú Trọng sẽ làm thế nào để gỡ khó từ ràng buộc ‘công bằng và đối ứng’ của Trump?
Nhiều khả năng, và trên thực tế tương quan quyền lực nội bộ đảng hiện nay thì cũng chẳng còn khả năng nào khác, chính Nguyễn Phú Trọng sẽ dẫn ‘đoàn cấp cao’ để công du Mỹ trong thời gian tới, trên cơ sở chuyến đi tiền trạm của Vương Đình Huệ vào cuối tháng Sáu năm 2018.
Nhưng chính vào lúc này, nhìn nhận một sự thật mà có lẽ giới tuyên giáo đảng ở Việt Nam chẳng hề muốn đả động: những chuyến công du quốc tế của giới chóp bu Việt Nam xảy ra trong bối cảnh Việt Nam đã bước vào năm suy thoái kinh tế thứ 10 liên tiếp, nợ xấu ngập đầu còn nợ công phi mã đến 210% GDP, ngân sách có nguy cơ cạn kiệt, trong lúc các kênh “ngoại viện” gần như đóng lại.
Vào năm 2015, Nguyễn Phú Trọng phải lần đầu tiên ‘xuất tướng’ sang Mỹ nhằm tìm kiếm cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam, mà kẻ hưởng lợi phía sau đương nhiên là ngân sách đảng cầm quyền của ông ta trong bối cảnh sắp hết tiền, được tham gia và Hiệp định TPP. Còn vào năm 2018 này, ngân sách nuôi đảng của Nguyễn Phú Trọng đã bộc lộ nhiều dấu hiệu cạn kiệt và có thể lao xuống vực xoáy nguy hiểm của nạn vỡ nợ. Chuyến đi Mỹ có khả năng xảy ra trong thời gian tới của ông Trọng có lẽ không ngoài một mục đích rất quan trọng là làm giảm nhẹ tác động của nguyên tắc ‘công bằng và đối ứng’ của Trump, qua đó lần mò lối thoát cứu đảng và cứu vãn chế độ độc trị mà hơi thở phập phù của nó có lẽ chỉ còn kéo được từng năm.
Leave a Comment