Để giúp cho quý độc giả hiểu lý do vì sao sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975 mà vẫn có rất nhiều người Việt Nam yêu nước tiếp tục chiến đấu chống lại chế độ Cộng sản Việt Nam cũng như đã có hàng triệu người hy sinh mạng sống vượt biên, vượt biển tìm tự do, chúng tôi xin đăng tải lại một bài viết đã được đăng trước đây, trình bày tóm lược về bối cảnh của Việt Nam trong 10 năm sau biến cố đau thương 30/4/1975.
Có nhìn lại 10 năm này, chúng ta mới thấy rõ lý do vì sao nhiều lực lượng đấu tranh đã tự phát ra đời và Mặt Trận đã tổ chức buổi lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị tại vùng biên giới Thái Lào cách nay 36 năm và chính khí thế đó đã góp phần nuôi dưỡng phong trào đấu tranh giành lại tự do dân chủ cho Việt Nam tiếp tục kéo dài cho đến ngày hôm nay.
Giai đoạn 10 năm này mang hai dấu ấn: Đất Nước Phá Sản Toàn Diện và Phong Trào Chống Cộng Bộc Phát.
Ban Biên Tập Web Việt Tân
Việt Nam trong giai đoạn 1975 đến 1984
Cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc trước sự sụp đổ “quá nhanh” của miền Nam, theo một chuỗi những biến động khởi đầu từ sau tết Ất Mão. Sự kiện miền Nam, đặc biệt là Thủ đô Sài Gòn đã không có hiện tượng “tắm máu” khi quân cộng sản Bắc Việt tiến chiếm vào ngày 30/4 càng khiến cho những người lãnh đạo ở miền Bắc “say men” chiến thắng và ngạo mạn tự coi mình “đứng trên đỉnh cao trí tuệ của loài người”.
Bên cạnh việc áp dụng những chính sách đàn áp và trả thù đối với quân cán chính miền Nam, lãnh đạo Hà Nội, nhất là Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng Lao Động vào lúc đó, đã cuồng vọng nghĩ rằng họ sẽ dễ dàng cải tạo xã hội Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia công nghiệp xã hội chủ nghĩa trong vòng 20 năm, qua mặt cả Nhật Bản.
Bất chấp tình trạng khác biệt về kinh tế, mô hình xã hội, tâm lý dân chúng của hai miền, lãnh đạo Hà Nội đã vội vã thống nhất Nam Bắc vào năm 1976 và đề ra chủ trương triệt để cải tạo miền Nam. Trong buổi lễ gọi là “mừng chiến thắng miền Nam” tổ chức tại Hà Nội vào ngày 15/5/1975, Lê Duẩn đã đọc bài diễn văn khẳng định như sau:
“Chúng ta có đủ tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng để khắc phục mọi khó khăn, vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó đế quốc Mỹ đã gieo biết bao tội ác, thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành trì bất khả xâm phạm của độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông Nam Á.”
Với tham vọng đó, từ đại hội đảng kỳ IV (1976), Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã đưa ra chủ trương cải tạo cả nước để “tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa” bằng cách:
Về chính trị, triệt để cải tạo xã hội nhằm xây dựng nhà nước vô sản chuyên chính dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng CSVN;
Về kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN) để quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa;
Về giáo dục – văn hóa, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng XHCN, chống tư tưởng tư sản, quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa của chủ nghĩa thực dân ở miền Nam, đào tạo những con người mới XHCN “hồng hơn chuyên”;
Về đối ngoại, tăng cường mối quan hệ mật thiết với các nước XHCN anh em, thực hiện nghĩa vụ vô sản quốc tế, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ.
Với những đường lối nói trên, lãnh đạo CSVN đã không những không xoa dịu vết thương chiến tranh như họ rêu rao tuyên truyền trong thời kỳ chiến tranh là “hòa hợp, hòa giải” dân tộc, mà còn làm phân hóa thêm tiềm lực dân tộc, tạo ra những hận thù mới bao trùm lên cả nước qua những chính sách đối nội và đối ngoại vô cùng sai lầm, đại cương gồm: a/ bế quan tỏa cảng với thế giới trong những năm đầu sau 1975 để bưng bít những chính sách trả thù người của chế độ cũ; b/ bóc lột và bần cùng hóa nhân dân; c/ chính sách trả thù và dùng khủng bố để cai trị.
Cụ thể, CSVN đã thi hành những điều sau:
A. Về mặt đối nội: lãnh đạo CSVN Bắc Việt đã khống chế cả nước trong gọng kềm “xã hội chủ nghĩa” qua việc:
1/ ĐỔI TIỀN:
Vào thời điểm tháng 4/1975, lượng tiền mặt trong ngân khố Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có hơn 1000 tỷ đồng, tương đương hơn 2 tỷ USD, và lượng tiền mặt được lưu hành trong dân chúng khoảng 615 tỷ đồng. Tại Sài Gòn, ngay chiều 30/4/1975 hầu hết các Ngân hàng đều bị niêm phong. Sáng ngày 1/5, Ủy ban quân quản ra lệnh “quốc hữu hóa” toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Ngày 6/6, chính phủ lâm thời miền Nam ra quyết định thành lập ngân hàng quốc gia cộng hòa miền Nam cử ông Trần Dương làm thống đốc, nhưng trong thực tế thì lúc này chính quyền miền Bắc đã kiểm soát toàn bộ hệ thống ngân hàng. Sau khi kiểm soát ngân hàng, CSVN tung chiến dịch đổi tiền nhằm vào 3 mục tiêu: 1/ thiết lập chế độ tiền tệ mới; 2/ ngăn chận giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt thao túng thị trường, 3/ tước đoạt phương tiện hoạt động của gián điệp, tình báo. Vì lo sợ những người có nhiều tiền mặt lén nhờ vả người thân, bạn bè đi đổi tiền dùm nên CSVN đã giữ kế hoạch đổi tiền rất bí mật và chỉ cho đổi trong vòng non 12 tiếng đồng hồ vào ngày 22/9.
Mỗi gia đình được đổi tối đa 100 ngàn đồng VNCH ra 500 đồng tiền mới. Tiểu thương có thể đổi thêm 100 ngàn đồng nữa. Những xí nghiệp được đổi 500 ngàn đồng. Số tiền cũ còn lại thì đổi ra tiền mới và phải ký thác vào ngân hàng. Trương mục sau đó bị khóa cho đến đầu năm 1976 mới cho phép rút 30 đồng tiền mới mỗi tháng. Tuy nhiên đến tháng 12/1976 thì lại khóa trương mục và dân chúng không được rút tiền ra nữa. Thủ đoạn ăn cướp này được CSVN tổ chức rất công phu tại Sài Gòn, huy động gần 50 ngàn cán bộ và bộ đội tham gia. Tối ngày 21/9, CSVN đã điều động 10 ngàn cán bộ ngành ngân hàng, 11,921 bộ đội để giữ an ninh và 35,000 thanh niên xung phong được đưa đến các quận, các khu vực mà không cho biết trước sẽ giao nhiệm vụ gì. Những người này phải kê khai tất cả tiền bạc, tư trang mang theo và từ đó bị giữ lại không cho về nhà. Trong đêm 21/9 họ được hướng dẫn chi tiết các nhiệm vụ phải làm và đúng 2 giờ sáng ngày 22/9 được đưa đến ngồi ở các bàn kê khai đổi tiền.
Vào lúc 4 giờ chiều ngày 21/9, đài phát thanh Sài Gòn cho biết là kể từ ngày mai, 22/9, chính phủ lâm thời miền Nam ra lệnh cấm lưu hành tiền VNCH có mệnh giá trên 50 đồng và phải đổi sang tiền mới. Đài phát thanh cũng yêu cầu dân chúng phải về nhà trước 11 giờ đêm để đợi thông báo quan trọng. Lúc 2 giờ sáng ngày 22/9, đài phát thanh loan tin quy định đổi tiền sẽ bắt đầu từ 5 giờ sáng kéo dài đến 11 giờ trưa. Nhưng số người dân đến sắp hàng quá đông và cán bộ chỉ mới được hướng dẫn không quen việc kê khai, duyệt xét, nên CSVN đã phải triển hạn đến 21 giờ đêm 22/9.
Đến ngày 23/9 các quận bắt đầu thu tiền cũ, đổi tiền mới cho đồng bào nhưng do tình hình phức tạp, người dân vẫn kéo đến xin kê khai vì làm chưa kịp. Tuy nhiên CSVN quyết định ngưng không cho kê khai nữa. Hệ quả là cả nước cùng “bình đẳng” trong đói nghèo. Có người mất trắng cả tài sản, phẫn uát tự tử toàn gia đình. Chính sách cai trị hà khắc bằng bao tử bắt đầu từ đây. Chủ nghĩa xã hội đã được người dân báng nhạo là “Cả Nước Xuống Hố”.
2/ TÙ CẢI TẠO:
Ngay sau khi kiểm soát toàn thể miền Nam, ngày 5/5/1975 Ủy ban quân quản ra mệnh lệnh số 1 về việc trình diện, kê khai và nộp vũ khí của quân cán chính miền Nam. Tất cả sĩ quan, binh lính, cảnh sát, tình báo trong thành phố Sài Gòn và Gia Định phải ra trình diện từ ngày 8/5 đến 31/5. Tại Sài gòn có 443 ngàn người trình diện chiếm gần một nửa trên tổng số người ra trình diện vào lúc này trên toàn miền Nam.
Một tháng sau khi chiếm miền Nam, ngày 31/5/1975 CSVN ra thông cáo buộc các quân cán chính VNCH phải trình diện học tập: 1/Cấp hạ sĩ quan, nhân viên phường, xã học tập ba ngày; 2/Cấp ủy và nhân viên cấp quận học tập 10 ngày; 3/Cấp Tướng, Tá, Lãnh đạo các đảng phái chính trị học tập 1 tháng.
Hạ sĩ quan binh lính và nhân viên quận, xã, khóm, phường đi học tập 3 ngày từ 11/6 đến 13/6. Sau 3 ngày học tập, họ đã được cấp giấy chứng nhận và cho về nhà. Thủ đoạn này khiến cho nhiều người tin là việc tập trung cải tạo không có gì nguy hiểm nên rủ nhau đi học. Cấp Tướng, sĩ quan, lãnh đạo các đảng phái, trí thức phải tụ họp từ ngày 18 đến 20, chỉ mang theo 21 kí lô lương thực và một số bộ quần áo thay đổi trong vòng 1 tháng học tập. Đây là sự tráo trở đầu tiên của CSVN nhằm đánh lừa để có nhiều người tin tưởng ra trình diện, rồi chính họ và gia đình mòn mỏi trông chờ ngày về.
Theo bản tường trình 26 trang của Aurora Foundation vào năm 1983 do bà Ginetta Sagan và ông Stephen Denney thực hiện thì có hơn 1 triệu người đã đi cải tạo mà rất ít được về sau thời hạn 10 ngày hay 1 tháng. Trên toàn quốc lúc bấy giờ có trên 150 trại tù cải tạo. Có khoảng 500 ngàn người được trả về nhà trong vòng 3 tháng; có 200 ngàn người bị giam giữ từ 2 đến 4 năm; có 240 ngàn người bị giam ít nhất 5 năm và nhiều chục ngàn người khác bị giam trên 10 năm.
CSVN tuyên truyền rằng mục đích của tập trung cải tạo là “để thay đổi con người từ chế độ lỗi thời vào kỷ nguyên mới của những công dân tốt” nhưng trong thực tế, nội dung các bài học đều tập trung vào ba chủ điểm mang tính chất nhồi sọ: 1/ đả phá chủ nghĩa đế quốc và sự thất bại của Mỹ; 2/ tội ác của ngụy quân ngụy quyền; 3/ chính sách khoan hồng của đảng, nghĩa vụ của người có tội.
CSVN dùng kỹ thuật nhồi sọ với mục tiêu tẩy não để biến tất cả tù nhân thành một “con vẹt” như một cái máy… cho đến khi nào phải nói giống nhau.
Vì chính sách dùng lao động để cải tạo tư tưởng nên lao động sản xuất là trọng điểm. Hàng ngày tù nhân bị bắt đi lao động sản xuất 8 tiếng. Mỗi tuần thì có hai buổi học tập chính trị. Trại “cải tạo” là những trung tâm khổ sai trá hình: người tù phải lao động cực nhọc, ăn uống thiếu thốn, bị đánh đập và làm nhục, thường xuyên bị đe dọa, và có nhiều trường hợp bị xử tử thẳng tay.
Ông Phạm Quang Giai, một cựu tù cải tạo viết trong tác phẩm Trại Cải Tạo xuất bản năm 1995 kể rằng: CSVN không cần đánh đập, không cần kết án, mà họ dùng cái máy chém vô hình và im lặng; ĐÓI. Họ lôi cái máy này đến mọi nơi, mọi chốn có tù chính trị miền Nam để trả thù, trả hận mà vẫn không mang tiếng là ác độc. Nhiều người đã thiệt mạng vì không chịu được cuộc sống khắc nghiệt, bệnh tật không có thuốc men. Thực chất đây là thủ đoạn trả thù quân cán chính miền Nam của lãnh đạo Hà Nội.
3/ ĐÁNH TƯ SẢN:
Song song với kế hoạch đổi tiền, từ tháng 9/1975, CSVN bắt đầu tung ra kế hoạch đánh tư sản. Ngày 10/9/1975, CSVN cho báo chí loan tải hai tài liệu.
Tài liệu thứ nhất liệt kê 10 tội ác của tư sản mại bản như xuất ít nhập nhiều làm vật giá leo thang, lao động thất nghiệp; dùng đồng tiền đặt tay chân vào bộ máy chính quyền; đầu cơ tích trữ, mua rẻ bán đắt; thông qua đại lý tổ chức buôn lậu; xuyên tạc phá hoại chính sách của chính quyền; hối lộ, mua chuộc, gây chia rẽ đội ngũ cách mạng; vơ vét rồi tuồng hàng ra chợ trời; thông đồng với bọn phản động chính trị…
Tài liệu thứ hai là tuyên bố của chính phủ cách mạng lâm thời miền nam Việt Nam ra lệnh bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cớ là đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường như: Mã Hỷ (vua lúa gạo), Lưu Tú Dân (vải dệt), Bùi Văn Lự (nhập cảng); Hoàng Kim Quy (thầu quân đội Mỹ), Trần Thiện Tứ (cà phê). Trước khi công bố lệnh bắt, CSVN đã lập bản doanh chỉ huy chiến dịch đánh tư sản tại Dinh Độc Lập cũ do Phạm Hùng chỉ huy và từ 12 giờ đêm của ngày 9/9/1975 đã huy động 10 ngàn công nhân, thanh niên, sinh viên đã được điều động đến bao vây nhà và cơ sở làm ăn của những người nói trên.
Cho đến tối ngày 10/9, tất cả những người nói trên đã bị bắt cùng với 60 người khác. Tuy nhiên, Mai Chí Thọ cho rằng các đoàn, các đội chỉ mới bắt được đối tượng, mới nắm được tài sản nổi chứ chưa lấy hết tài sản chìm. Theo Mai Chí Thọ thì mỗi tên tư sản người Hoa có thể có từ 500 đến 1000 lượng vàng.
Sau khi trấn áp “tội ác của các trùm tư bản”, CSVN tung ra chiến dịch đổi tiền 22/9, và thiết lập một số tòa án xét xử “tư sản mại bản” để răn đe dư luận. CSVN kết án ông Hoàng Kim Quy bị gán ghép là thúc giục chính quyền VNCH vay 500 triệu USD để mớn hơi cho Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ bị kết án 20 năm tù tịch thu toàn bộ tài sản. Ông Lưu Trung bị cáo buộc về tội nhập cảng nông cụ chính là tiếp tay cho âm mưu xảo quyệt của Mỹ, dùng viện trợ kinh tế để biến nông thôn thành chỗ dựa cho nguỵ quyền bị kết án 20 năm tù và tịch thu tài sản.
Qua chiến dịch đánh tư sản mại bản, CSVN đã thu được 918,4 triệu đồng miền Nam, 134 ngàn USD; 61,121 đồng miền Bắc; 7,691 lượng vàng, 4,040 hột xòan; 40 hột kim cương; 97 hột cẩm thạch; 60 ngàn tấn phân bón; 8 ngàn tấn hóa chất; 3 triệu mét vải; 2,500 tấn sắt vụn; 1,295 cặp vỏ ruột xe; 27,460 bao xi măng; 644 xe hơi; 2 cao ốc; 96 ngàn chai rượu; 13 ngàn ký trà; 457 căn nhà phố; 4 trại gàn khoảng 30 ngàn con; 4,150 con heo; 10 con bò; 4 rạp hát; 1 đồn điền, cà phê, nho, táo rộng 170 hécta ở Đà Lạt.
Sau đợt đánh tư sản để dằn mặt dân chúng, tháng 9/1976, Bộ chính trị CSVN ra nghị quyết “tích cực cải tạo công thương nghiệp miền Nam”, mở đầu cho giai đoạn tịch thu toàn bộ tài sản, xí nghiệp còn nằm trong tay tư nhân vào tay nhà nước. Tuy nhiên chính sách tịch thu nói trên tiến rất chậm vì sự chống đối ngầm của người dân nên một năm sau, tháng 7/1977, Lê Duẩn cho lập Ủy Ban Cải Tạo Công Thương Nghiệp giao cho Nguyễn Văn Linh phụ trách.
Vì ông Linh là người sống ở miền Nam, đang là Bí thư thành phố Sài Gòn nên biện pháp của ông mềm dẻo và không tiến hành nhanh chóng dứt điểm như Bộ chính trị mong muốn nên Nguyễn Văn Linh bị Lê Duẩn cách chức Bí thư thành ủy vào năm 1978, bị đưa ra khỏi Bộ chính trị, điều sang phụ trách công tác dân vận, công đoàn. Lê Duẩn đã cử Đỗ Mười và Tố Hữu, cả hai đang là Ủy viên dự khuyết Bộ chính trị, vào Sài Gòn trực tiếp chỉ đạo và đã gây ra không biết bao nhiêu bi kịch tại miền Nam.
Theo kế hoạch này, CSVN đòi hỏi là mỗi phường, khóm phải tìm cho ra một tỷ lệ tối thiểu nào đó những thành phần gọi là “tư sản” giống như hình thức tìm địa chủ trong thời cải cách ruộng đất năm 1953-1956 ở miền Bắc. Vì thế mà tại những xóm lao động, nhiều người chỉ hơn người khác một chút liền bị kết án “tư sản” và đưa đi trại tù cải tạo hay lên vùng rừng thiêng nước độc mà Hà Nội gọi là vùng kinh tế mới. Tuy nhiên, vì người dân miền Nam đã có những thái độ bất hợp tác và phá ngầm nên có thể nói là chính sách cải tạo công thương không thành công, và nhất là tình hình chính trị trở nên phức tạp sau khi Hà Nội chiếm Campuchia vào tháng 1/1979, nên đảng CSVN đã không còn nhắc đến chủ trương cải tạo công thương nữa.
4/ KINH TẾ MỚI:
Song song với kế hoạch đánh “tư sản” là chính sách đưa người ra vùng “kinh tế mới”. Mục tiêu là để dễ ngăn chận thành phần chống đối trong thành phố và nhất là để có nhà cửa ban phát cho cán bộ từ miền Bắc đưa vào, hay từ Mật Khu ra làm việc ở những thành phố, đặc biệt là tại Sài Gòn.
CSVN đã cưỡng ép 5 thành phần sau đây phải ra khỏi thành phố: 1/ Những người bị ghép là tư sản, tiểu địa chủ; 2/ Những gia đình có người thân bị tập trung cải tạo hay sống trong các khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân VNCH; 3/ Những người cư trú bất hợp pháp hay thất nghiệp; 4/ Những hoa kiều. Kế hoạch này bắt đầu ngày 19/5/1976 với phương thức cưỡng bức gồm thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải đi ra vùng nông thôn.
Ngày 25/6/1976, Lê Duẩn đã trình bày về lý do lập khu kinh tế mới trong kỳ họp thứ nhất quốc hội thống nhất như sau:
Ở miền Nam, những người trước đây nhờ chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ mà có một mức sống vật chất vượt xa khả năng của nền kinh tế trong nước và kết quả lao động của bản thân họ, nên hiểu rằng đó là một cuộc sống phồn vinh giả tạo, đổi bằng đau khổ, chết chóc của hàng triệu đồng bào, bằng sự triệt phá biết bao xóm làng, thị trấn, bằng sự sa đọa của biết bao thanh niên, bằng sự chà đạp nhân phẩm của biết bao phụ nữ ở các vùng tạm bị chiếm, và bằng nhục mất nước. Họ nên hiểu rằng lối sống chạy theo những nhu cầu giả tạo theo kiểu “xã hội tiêu thụ”, đua đòi theo những thị hiếu tầm thường, hoàn toàn trái với cuộc sống hạnh phúc văn minh chân chính. Những đồng bào ấy ngày nay có thể và cần trở lại với thực tế, trở về với cuộc sống của dân tộc, sống bằng kết quả lao động của mình. Đó là con đường để tiến tới một cuộc đời tươi vui, đẹp đẽ, có ý nghĩa, có phẩm giá, có hạnh phúc thật sự và lâu bền cho chính mình và con cháu mình.
Với quan điểm của một người đứng đầu đảng và nhà nước có một nhận định vô cùng thiển cận theo tư duy cộng sản như vậy, đã khiến cho dân tộc phải đón nhận một bi kịch mới của đất nước không khác gì chính sách cải cách ruộng đất mà CSVN đã áp dụng ở miền Bắc từ năm 1953 đến năm 1956.
Trong 5 năm từ năm 1976 đến năm 1980, Thành phố Sài Gòn đã đưa về sống ở nông thôn 832 ngàn người. Mỗi gia đình khi bị đưa ra vùng kinh tế mới, chỉ được mang theo tối đa 800 kí lô hành lý. Hai dụng cụ được cung cấp là cuốc, thuổng và được cấp 2,5 mẫu dùng làm “đất sản xuất” để tự túc trồng trọt lương thực. Các khu “kinh tế mới” được lập ra vội vã tại Bình Dương, Bình Tuy, Bình Long, Phước Long, Tân Phú, Thủ Dầu Một, Định Quán, Lai Khê… Trên mảnh đất thuộc vùng khô cằn sỏi đá hoặc rừng rậm, chưa hề được canh tác, do đó, người dân phải tự lực cánh sinh và còn phải đóng góp 8 giờ cho Hợp tác xã.
Cả đời sinh sống trong thành phố không hề biết đến lao động chân tay, nên đa số những người bị ép buộc về các khu kinh tế mới không thể sống nổi vì thiếu thốn thuốc men, bị bệnh tật hoành hành và hoàn toàn không có tương lai. Hầu hết đều tìm cách trốn về lại thành phố. Nhưng nhà cũ của mình thì đã bị người của nhà nước chiếm đoạt, đành phải sống vật vờ, xin ăn, tìm kiếm cơ hội đi vượt biên hoặc phải về quê tá túc với người thân.
5/ HỢP TÁC XÃ:
Tại nông thôn, rút kinh nghiệm thất bại của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, Bộ chính trị CSVN chỉ tiến hành chính sách đưa nông dân vào hợp tác xã mà thôi. Theo kế hoạch thì ruộng đất được tập hợp lại để tổ chức canh tác tập thể, sản phẩm được phân chia căn cứ theo mức đóng góp. Máy móc nông nghiệp của nông dân bị trưng mua để thành lập các hợp tác xã phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các hợp tác xã sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm của mình cho Nhà nước theo giá kế hoạch thấp hơn rất nhiều giá thị trường. Bù lại, nhà nước cung cấp vật tư và hàng hóa tiêu dùng cho các hợp tác xã.
Tháng 6/1977, Hà Nội đã buộc các Tỉnh phải đẩy mạnh việc đưa nông dân vào hợp tác xã và hoàn tất vào năm 1979. Tính đến cuối năm 1979, ở Miền Nam thành lập được 1.286 hợp tác xã và hơn 15.000 tổ sản xuất bao gồm khoảng 50% nông dân. Nhưng đó chỉ là con số báo cáo trên hình thức vì kế hoạch này đã gặp sự chống đối mạnh mẽ của nông dân các tỉnh, nhất là vùng đồng bằng vùng châu thổ sông Cửu Long. Nông dân đã bỏ ruộng không chịu canh tác và không chịu tham gia vào hợp tác xã khiến cho sản lượng cũng như năng xuất lúa tụt xuống một cách thảm hại, từ 11,8 triệu tấn lúa năm 1976 xuốn còn 9,7 triệu tấn lúa vào năm 1979. Đặc biệt là năm 1978 đã xảy ra trận lụt lớn chưa từng có ở đồng bằng sông Cửu Long, khiến cả nước rơi vào tình trạng thiếu đói khủng khiếp.
Nông dân đã bỏ ruộng không chịu canh tác và không chịu tham gia vào hợp tác xã khiến cho tình trạng lương thực cả nước bị nguy kịch, đưa đến sự sụp đổ của nền nông nghiệp miền Nam. Rốt cuộc là Hà Nội đã phải ngưng chính sách hợp tác hóa vào cuối năm 1979.
Thay vào đó, chế độ tung ra chính sách khoán hộ, tức là mỗi nông dân đảm nhận ruộng canh tác và với mức khoán sản lượng thâu hoạch do hai bên thỏa thuận. Nếu sản lượng canh tác vượt hơn mức khoán thì nông dân có quyền sử dụng mức thu hoạch dư đó bằng cách bán ra ngoài thị trường hay bán cho nhà nước với giá thỏa thuận.
Những cải tổ này tuy giới hạn nhưng đã phần nào thay đổi đời sống thiếu thốn của người dân. Nhưng đến năm 1982, tại hội nghị 5 của Trung ương đảng, Lê Duẩn cho rằng phải tiếp tục chủ trương cải tạo công thương nghiệp và hợp tác hóa nông nghiệp thì mới có thể tiến lên CNXH. Chủ trương này của Lê Duẩn một lần nữa đã đẩy toàn thể đất nước vào một cuộc khủng hoảng toàn diện, kéo dài cho đến khi Lê Duẩn từ trần vào tháng 7/1986.
B. Về mặt đối ngoại: CSVN đã hoàn toàn dựa vào Liên Xô, dâng hiến hải cảng Cam Ranh làm nơi đồn trú của lực lượng hải quân Nga và tiến hành tham vọng xây dựng Liên bang Đông Dương.
1/ THEO LIÊN XÔ:
Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào tháng 4/1975, mục tiêu chiến lược của Liên Xô lẫn Trung Cộng đối với CSVN đã thay đổi. Liên Xô chỉ bằng lòng giúp CSVN nếu Hà Nội chịu nằm trong quỹ đạo Liên Xô, kể cả về kinh tế lẫn quân sự, để giúp Liên Xô kiềm chế Trung Cộng và có một đầu cầu quân sự quan trọng trong vùng nam Thái Bình Dương.
Trong khi đó, Trung Cộng ngày càng thân thiện với Hoa Kỳ và đang coi Liên Xô là kẻ thù số một, không thấy có nhu cầu phải giúp CSVN độc lập không chịu về phe mình để chống lại Liên Xô. Vì thế mà tháng 8/1975, CSVN cử Lê Thanh Nghị, Chủ tịch Ủy ban kế hoạch nhà nước, người đã từng sang Bắc Kinh nhiều lần xin viện trợ trong thời kỳ còn chiến tranh sang cảm ơn và tiếp tục xin viện trợ tái thiết, nhưng Bắc Kinh đã từ chối.
Không nãn chí, cuối tháng Chín, 1975, Lê Duẩn cùng với Lê Thanh Nghị dẫn một phái đoàn sang thăm Bắc Kinh một lần nữa. Đặng Tiểu Bình vừa mới được phục chức Phó Thủ Tướng đón tiếp Lê Duẩn và đề nghị CSVN liên kết với Bắc Kinh để chống bá quyền “Liên Xô”, nhưng Lê Duẩn từ chối khi cho rằng Liên Xô là “ân nhân” của CSVN. Thái độ của Lê Duẩn đã làm cho Bắc Kinh khó chịu và từ chối viện trợ; vì thế mà Lê Duẩn từ chối thảo Thông cáo chung và hủy bỏ tiệc liên hoan đáp lễ.
Ngày 25/9/1975, Lê Duẩn đáp tàu Lửa đi Thiên Tân trở về nước. Một tháng sau, Lê Duẩn dẫn một phái đoàn viếng thăm Liên Xô. Trái với chuyến đi Trung Quốc, Lê Duẩn đã ký một thông cáo chung giữa hai bên, trong đó CSVN nhất trí với Liên Xô về đuờng hướng đối ngoại.
Kể từ lúc này, CSVN đã công khai đứng về phía Liên Xô. Nhưng CSVN vẫn tìm cách duy trì mối quan hệ tốt với Bắc Kinh để tranh thủ nguồn viện trợ. Nhưng khi Khờ Me Đỏ tìm cách thoát ra khỏi vòng khống chế “Liên Bang Đông Dương” của CSVN bằng cách đi theo Trung Cộng và giận dữ trước sự kiện Hà Nội đuổi hàng loạt người Hoa rời khỏi Việt Nam nên Bắc Kinh đã ủng hộ chính quyền Khờ Me Đỏ (Dân Chủ Campuchia) và từ chối viện trợ cho Hà Nội.
Đầu năm 1977, Liên Xô và CSVN đã ký hiệp định hợp tác kinh tế; theo đó Liên Xô giúp Hà Nội xây dựng một số cơ sở kinh tế quan trọng như nhà máy thủy điện Hòa Bình, Trị An, Nhiệt điện Phả Lại, nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, hợp tác khai thác dầu khí. Tổng số viện trợ và cho vay của Liên Xô cho Hà Nội từ năm 1975 đến năm 1980 trị giá hơn 2,4 tỷ rúp chuyển nhượng. Qua sự bảo lãnh của Liên Xô, tháng 5 năm 1977, CSVN gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế thuộc khối các nước xã hội chủ nghĩa (COMECON).
Tháng 7/1977, nhiều phái đoàn quân sự của Liên Xô viếng thăm Việt Nam và tiến hành một số hợp tác quân sự, qua đó Liên Xô giúp CSVN tái thiết một số phi trường, hải cảng ở miền Nam như Đà Nẵng, Cam Ranh, Nha Trang, Tân Sơn Nhứt.
Tháng 2/1979, trên hình thức, Liên Xô và CSVN ký hiệp định cho phép tàu thuyền hải quân Liên Xô ra vào, ghé đậu, và máy bay Liên Xô hạ cánh ở Cam Ranh; nhưng trong thực tế thì Hà Nội đã để cho quân đội Liên Xô đóng ở hai căn cứ Cam Ranh và Đà Nẵng vừa để giúp bảo vệ vùng trời của Việt Nam trước sự đe dọa của Trung Quốc và Hoa Kỳ, vừa để hải quân Liên Xô kiểm soát đường chở dầu hỏa qua biển Đông trong trường hợp xảy ra chiến tranh.
2/ CHIẾM CAMPUCHIA:
Sau khi ký hiệp ước hữu nghị với Liên Xô, ngày 18/7/1977 phái đoàn đảng và nhà nước CSVN do Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng dẫn đầu, sang viếng thăm Lào qua sự tiếp đón rất long trọng của Chủ tịch đảng Cộng sản Lào Souphanouvong, Thủ tướng Lào Kayson Phomvihan. Tại đây hai phía đã ký Hiệp ước hữu nghị và tương trợ, với nội dung “hợp tác chặt chẽ để tăng cường khả năng phòng thủ và bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của hai nước.” Hiệp ước này trong thực thế chỉ là văn kiện hợp thức hóa sự chiếm đóng của 3 sư đoàn 325, 304 và 968 của CSVN trên đất Lào.
Với hiệp ước hữu nghị giữa Lào và CSVN đã làm cho phe Khờ Me Đỏ tức Dân Chủ Campuchia lo ngại không sớm thì muộn sẽ bị Hà Nội ép phải vào trong Liên Bang Đông Dương. Do đó mà Campuchia thấy cần phải liên minh chặt chẽ hơn nữa với Bắc Kinh và chuẩn bị một cuộc chiến tranh “tự vệ mới” để chống lại lực lượng quân đội CSVN.
Với sự yểm trợ ngầm của Bắc Kinh, đêm 30/4/1977, ba trung đoàn KMĐ thuộc các sư đoàn 210 và 250 của quân khu Tây Nam mở cuộc hành quân đánh lớn vào nhiều quận lỵ và làng mạc sát biên giới thuộc tỉnh An Giang. Bị đánh bất ngờ, bộ đội CSVN bỏ chạy, quân KMĐ tràn sang biên giới đốt phá làng mạc, tàn sát thường dân vô tội, nhất là phụ nữ và trẻ em.
Lúc đó, CSVN vẫn còn muốn lấy lòng Bắc Kinh nên chỉ xử dụng phi cơ oanh kích trả đũa những căn cứ quân sự của KMĐ trên đất Campuchia chứ chưa mở cuộc phản công. Ngay cả việc trao kháng thư phản đối, Hà Nội chỉ trao một cách kín đáo cho viên đại sứ KMĐ tại Hà Nội. Sự thụ động của CSVN đã làm cho Pol Pot càng hăng máu muốn đánh lớn để lập công dâng Bắc Kinh.
Vì thế mà 3 ngày trước khi rời Campuchia sang thăm Bắc Kinh, đêm 24/9/1977, Pol Pot ra lệnh cho các đơn vị của hai sư đoàn 3 và 4 của quân khu Đông ồ ạt tấn công vào vùng biên giới Tỉnh Tây Ninh như Bến Cầu, Tân Biên, Xa Mát, Châu Thành. Khu kinh tế mới Long Cường cũng bị tấn công. Sau những trận đánh tháng 9, quân KMĐ tiếp tục mở những cuộc tấn công quấy rối, thăm dò, cho đến ngày 17/11/1977 thì mười ba tiểu đoàn thuộc các sư đoàn 3, 4 và 290 lại mở cuộc tổng tấn công lớn đánh chiếm những làng xã phía Tây Tỉnh Tây Ninh và nhất là khống chế Tỉnh Lộ 13 chạy song song với biên giới phía Tây tỉnh Tây Ninh.
Ngày 2/12/1977, Binh đoàn Cửu Long gồm các sư đoàn 7, 9, 341 dưới sự chỉ huy của Tướng Hoàng Cầm đã tổng phản công tái chiếm lại những vị trí ở tỉnh Tây Ninh, sau đó tràn sang biên giới Miên phá hủy những căn cứ quân sự. Trước sự phản công của CSVN. Cuối tháng 7/1978, Bộ trưởng quốc phòng Campuchia Son Sen đã sang Bắc Kinh yêu cầu Đặng Tiểu Bình bảo đảm viện trợ quân sự mạnh mẽ để chống lại CSVN. Đặng Tiểu Bình hứa là nếu KMĐ trung thành giữ đúng bổn phận và cùng chung mặt trận thống nhất chống CSVN thì viện trợ không ngừng. Họ Đặng cũng đã thúc KMĐ phải tái lập Thái tử Norodom Sihanuok trở lại ngôi vị đứng đầu chính phủ để thu hút sự ủng hộ của thế giới. Lúc đó, Bắc Kinh cũng cố vấn cho Son Sen là nên chuẩn bị chiến tranh du kích, chôn giấu vũ khí để chuẩn bị đối phó với lực lượng CSVN bằng du kích hơn là trận địa chiến. Theo tình báo CIA thì cố vấn quân sự Trung Cộng tại Campuchia có khoảng 5000 người vào năm 1978.
Trong khi đó, từ mùa hè năm 1978, CSVN đã tiến hành một số nỗ lực: 1/ cử Phạm Văn Đồng viếng thăm các nước trong khối ASEAN nhằm vận động Mã Lai, Thái Lan chống lại Trung Cộng nhưng hoàn toàn thất bại vì các nước này đã bị Bắc Kinh lôi kéo trước đó để chống lại Hà Nội; 2/ thành lập Hội đồng cách mạng Campuchia do Heng Samrin và Chea Sim lãnh đạo để chuẩn bị tiếp thu Nam Vang khi Khờ Me Đỏ bỏ chạy; 3/ Huy động một lực lượng hùng hậu tấn công lực lượng Khờ Me Đỏ ngay trên đất Campuchia. CSVN đã chọn thởi điểm tấn công là tháng 12 khi lúa gặt xong và ruộng đồng khô ráo.
Ngày 9/1/1979, lực lượng CSVN đã chiếm được thủ đô Nam Vang và đưa Heng Samrin xuất hiện với tư thế là chủ tịch hội đồng cách mạng. Ngày 18/1 Heng Samrin đã thay mặt hội đồng này ký một hiệp ước với CSVN, hợp thức hóa sự hiện diện của 180 ngàn quân đội CSVN do Tướng Lê Đức Anh chỉ huy trên đất Campuchia. Trong ba tháng chiếm đóng Nam Vang, các đoàn xa mườn nượp chở tủ lạnh, máy điều hòa không khí, đồ điện, máy móc và đồ điêu khắc về Sài Gòn.
Trong khi đó, Campuchia được tuyên bố là đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Nhân Dân Cách Mạng, đảng này được lập ra một cách vội vã lúc lực lượng CSVN tiến vào Nam Vang với khoảng 200 đảng viên. Đa số họ là những người đã chạy sang lưu vong ở Hà Nội trong thời gian KMĐ cầm quyền và đã lập ra Hội đồng cách mạng Campuchia nhưng không đủ khả năng để lãnh đạo và điều hành Campuchia. Nhất là không đủ khả năng chống lại KMĐ.
Do đó mà hàng ngàn cán bộ CSVN đưa sang với tư cách làm “cố vấn” nhưng thực tế là điều động mọi thứ, từ việc tái lập lại vấn đề điện, nước, bệnh viện, trường học, chợ búa cho đến vấn đề tu bổ đường xá, cầu cống và xe cộ vận chuyển. Các bộ trong chính quyền được tái lập nhưng dưới sự điều động của các cố vấn CSVN từ Y tế, giáo dục, ngân hàng, ngoại thương, an ninh…
Để kiểm soát toàn bộ chính quyền Campuchia, CSVN đã thành lập 3 bộ phận bí mật. Thấp nhất là A-50: chỉ đạo các chuyên gia CSVN sang giúp cho các tỉnh Campuchia. Kế đến là tổ B-68 do Trần Xuân Bách lãnh đạo trực thuộc Ban Bí Thư gồm các chuyên gia CSVN có nhiệm vụ cố vấn các Bộ. Cao nhất là A-40 gồm mấy chuyên gia cao cấp của Ủy ban Trung ương đảng CSVN.
Hậu quả của chính sách xâm chiếm Campuchia đã đưa đất nước, một lần nữa, vào chiến tranh chết chóc với hàng chục ngàn thanh niên Việt Nam bỏ xác trên trận địa mới, vừa tạo sự phẫn nộ của các quốc gia láng giềng, của dư luận quốc tế, và nhất là Trung Cộng.
3/ CHIẾN TRANH VỚI TÀU:
Tháng 2/1978, Bộ chính trị CSVN họp tại Sài Gòn bàn về cách đối phó tình hình mới. Hội nghị đã thống nhất trên ba điểm: 1/ Đối phó quyết liệt với KMĐ; 2/ Đương đầu với Trung Cộng; 3/ Giải quyết vấn đề người Hoa để trừ mối họa “thù trong giặc ngoài”; 4/ Liên minh chặt chẽ với Liên Xô và tiếp cận với khối ASEAN và Hoa Kỳ.
Một khi đã quyết định đối mặt với Trung Cộng, CSVN nghĩ đến hiểm họa của hơn 2 triệu người Hoa sống ở Việt Nam. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ nhưng người Hoa có một thế lực kinh tế mạnh ở Việt Nam. Hành động đầu tiên của CSVN đối với người Hoa là bắt phải nhập Việt tịch nếu không sẽ mất hộ khẩu và khẩu phần mua lương thực. Song song, CSVN âm thầm trục xuất những người gốc Hoa sống ở những địa phương sát biên giới và nhất là tổ chức cho người Hoa đi tỵ nạn để thu vàng. Nhưng khi CSVN tung ra chiến dịch “triệt hạ những thành phần tư sản miền Nam” mà cụ thể là nhắm vào giới tư sản Hoa Kiều ở miền Nam thì Trung Cộng không thể không phản ứng, nếu không sẽ mất mặt.
Bắc Kinh ra lệnh ngưng tất cả 75 dự án viện trợ cho CSVN, rút hết các chuyên gia về nước. Hành động đó là một biện pháp trừng phạt tương đương như Liên Xô đã dùng để đối phó với Trung Cộng vào năm 1960. Ngày 24/8/1978, Bắc Kinh gọi người Hoa sống ở Việt Nam là “nạn kiều” và tố cáo CSVN đã đàn áp và đối xử bất công đối với người Hoa. Từ năm 1977 đến năm 1979 đã có non 1 triệu người Hoa bị CSVN ngược đãi phải vượt biên giới chạy về Quảng Đông, Quảng Tây lánh nạn.
Trong khi đó, CSVN cũng tìm cách loại bỏ những cán bộ có nhiều quan hệ với Bắc Kinh như Hoàng Văn Hoan (Ủy viên Trung ương đảng), Chu Văn Tấn (tư lệnh quân khu 1), Lê Quảng Ba (phó chủ tịch quốc hội), Lý Ban (Thứ trưởng Bộ ngoại thương) ra khỏi bộ máy nhà nước. Sự đối đầu giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã lên cao điểm khi CSVN chuẩn bị cuộc chiến xâm lăng Campuchia vào cuối năm 1977.
Đối với Trung Cộng, sau khi bỏ ra gần 20 tỷ Mỹ Kim viện trợ cho Hà Nội trong những năm chiến tranh và nhất là xây hàng trăm nhà thương ngay trong lãnh thổ của mình để chữa trị các thương binh, sự trở mặt của CSVN là một hành động phản bội, cần phải trừng phạt. Trung Cộng đã lên kế sách tấn công CSVN vào cuối năm 1978. Mục tiêu của cuộc trừng phạt này, theo Đặng Tiểu Bình nói với thế giới bên ngoài là để dạy cho Hà Nội một bài học; nhưng thực ra, vụ trừng phạt này còn giúp cho họ Đặng dùng “kẻ thù Việt cộng” để tạo sự đoàn kết trong nội bộ đảng sau khi lật đổ xong nhóm Tứ Nhân Bang.
Ngày 17/2/1979, quân đội Trung Quốc bắt đầu pháo kích ào ạt sang các vị trí quân sự của các quận Tiên Lĩnh, Hà Quảng thuộc tỉnh Cao Bằng, mở đầu cho cuộc tấn công quy mô trên một chiến tuyến dài 1 ngàn cây số dọc theo biên giới Việt Hoa, từ Lai Châu đến Móng Cái. Trung Cộng đã huy động 80 ngàn quân và hàng trăm ngàn quân yểm trợ cho cuộc chiến biên giới này cho đến ngày 16/3 mới kết thúc.
Cuộc chiến này đã gây thiệt hại cho cả hai bên rất nhiều, đặc biệt là số thương vong phía Trung Cộng lên rất cao. Theo điều tra của Tạp Chí Time thì bộ đội Trung Cộng bị thiệt mạng là 25 ngàn người và 26 ngàn bộ đội bị thương, phía CSVN bị thiệt mạng là 10 ngàn người và 1,600 bị bắt làm tù binh. Sau trận chiến biên giới, Bắc Kinh và Hà Nội đã đổi sang khẩu chiến, với những đòn tuyên truyền kích động và chống phá lẫn nhau trên các lãnh vực từ ngoại giao, truyền thông, báo chí cho đến phim ảnh, kịch nghệ.
Vào lúc này, ông Hoàng Văn Hoan, phó chủ tịch quốc hội, nguyên đại sứ Việt Nam tại Hoa Lục đã đào thoát sang Bắc Kinh nhân chuyến đi ngoại quốc vào năm 1979. Ông Hoan đứng về phía Bắc Kinh tấn công lại Hà Nội và đã bị CSVN khai trừ ra khỏi đảng.
4/ LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG:
Sau khi thiết lập xong chính quyền bù nhìn tại Nam Vang, tháng 1/1980 dưới sự chủ trì của Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch một hội nghị của Ngoại trưởng ba nước Việt – Miên – Lào diễn ra tại Thủ đô Vạn Tượng của Lào để hình thành Liên Minh Hữu Nghị Ba Nước Việt – Miên – Lào. Tại Hội nghị này, ba nước đã quyết định là mỗi hai năm, nguyên thủ của ba nước gặp nhau một lần để trao đổi các vấn đề chiến lược và tất cả các tỉnh, thành ở Campuchia và Lào đều có một tỉnh, thành của Việt Nam đỡ đầu. Các cố vấn về quân sự và chuyên gia về kỹ thuật của Việt Nam sẽ sang làm việc, giúp ý kiến cho các cơ quan trung ương và địa phương của Lào và Campuchia.
Trong Hội nghị thượng đỉnh của ba nước cũng tại Vạn Tượng vào tháng 2/1983, ba nguyên thủ đã đồng ý thành lập Uỷ ban liên kết kinh tế Việt – Miên – Lào, cứ mỗi 6 tháng các Bộ trưởng kinh tế, tài chánh sẽ họp nhau một lần để trao đổi và đẩy mạnh các dự án hợp tác phát triển kinh tế giữa ba nước, xây dựng một loại công phiếu Đông Dương để dùng chung cho 3 nước. Dưới hình thức liên kết nói trên, CSVN đã không chỉ nắm chặt bộ máy điều hành của Lào, Campuchia mà còn đưa cán bộ và dân chúng sang sinh sống và làm việc – như một hình thức “xâm lược” mới – tại hai xứ này. Theo đánh giá của một số chuyên gia Đông Nam Á thì tính cho đến năm 1985, Hà Nội đã cho phép khoảng 1 triệu người Việt nhập cư tại Campuchia.
Với những chính sách đối nội và đối ngoại sai lầm nói trên, CSVN đã tạo ra một địa ngục ngay trên đất nước Việt Nam và hận thù đối với các nước lân bang.
Dân chúng Việt Nam ở cả hai miền Nam và Bắc không chỉ sống trong cơ hàn, đói khát, bị đàn áp, đe dọa với chính sách nghi kỵ, phải tố cáo nhau để sống còn – phá tan giềng mối gia cang và đạo đức trong xã hội, mà còn bị tước đoạt mọi quyền căn bản của con người. Trong bối cảnh khổ đau cùng cực đó, người Việt Nam đã có hai phản ứng.
Thứ nhất là tìm cách chạy trốn thảm họa Cộng sản để tìm tự do nơi xứ người với làn sóng thuyền nhân ào ạt vượt biên, vượt biển sang các quốc gia láng giềng tạo ra một chấn động lớn trong lịch sử cận đại thế giới. Hàng triệu người bất chấp cái chết đã tìm mọi cách ra đi và có nhiều người đã vùi thân nơi biển cả, rừng sâu trên đường chạy trốn. Bi kịch thuyền nhân đã tác động lên lương tri nhân loại và Liên Hiệp Quốc đã phải triệu tập một Hội nghị Quốc tế về Thuyền Nhân vào năm 1980 để huy động các quốc gia chung tay cứu giúp thuyền nhân.
Những thuyền nhân ra đi dù sống tạm tại những trại tỵ nạn ở Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai, Nhật Bản để chờ ngày tái định cư, hay đã được định cư lập cuộc sống mới tại các quốc gia Hoa Kỳ, Úc Châu, Gia Nã Đại, Pháp, Thụy Sĩ vân vân… đều quây quần thành lập những hội đoàn, tổ chức để vừa duy trì tinh thần đấu tranh chống Cộng sản, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống mới. Tuy các thuyền nhân đã trải qua cuộc hành trình vượt biên, vượt biển rất hãi hùng, nhưng khi đến được bến bờ tự do đều không quên những người còn ở lại trong lao tù CSVN và đồng bào đang sống lây lất tại quê nhà, nên đã tiếp tục góp phần trong công cuộc đấu tranh cho một Việt Nam tự do. Chính khối người Việt tỵ nạn với lòng yêu nước và chán ghét chế độ độc tài CSVN đã phát huy và duy trì chính nghĩa đấu tranh kéo dài đến ngày hôm nay.
Thứ hai là không chấp nhận đầu hàng chế độ và tiếp tục lập những tổ chức đấu tranh để chống lại chính sách cai trị độc tài và tàn ác của CSVN. Ở trong nước, đa số các tổ chức kháng cự được thành lập vào thời điểm ngay sau khi miền Nam Việt Nam sụp đổ bởi những người không chấp nhận lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh. Ở hải ngoại, những lực lượng đấu tranh được thành lập bởi những người tỵ nạn cộng sản tại Hoa Kỳ, Úc Châu, Pháp, Nhật Bản. Nỗ lực chính yếu của các lực lượng đấu tranh vào thời gian này là tìm cách liên lạc để tạo cái bắt tay giữa các lực lượng ở trong nước và ở hải ngoại để có thể hỗ trợ và nuôi dưỡng trận thế đấu tranh lâu dài.
Trong thời kỳ từ năm 1979 đến năm 1982, có nhiều cá nhân, tổ chức tại hải ngoại đã tìm cách trở về vùng Đông Nam Á để liên lạc, móc nối những tổ chức kháng cự tại quốc nội hầu thống nhất thành một mặt trận đấu tranh chung như các ông Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh. Trong các nỗ lực này, sự ra đời của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam qua buổi lễ công bố Cương Lĩnh Chính Trị vào năm 1982 tại vùng rừng núi Thái Lào, đã làm cho ngọn lửa kháng chiến bùng cháy trở lại trong lòng người Việt Nam sau những năm tháng tủi nhục của ngày 30/4/1975.
*
Qua những diễn tiến của 10 năm (1975-1984) nói trên cho thấy là do sự ngạo mạn, hiếu thắng và nô lệ chủ nghĩa, CSVN đã phá hoại đất nước với chủ trương “tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa”, bất chấp tình trạng suy kiệt của đất nước sau nhiều thập niên chiến tranh. Trong 10 năm này, Lê Duẩn dồn mọi tài nguyên quốc gia vào việc thực hiện bá quyền trên vùng đất Đông Dương, sau đó bị sa lầy trên chiến trường Campuchia, kéo nước ta thụt lùi vào những năm đầu thế kỷ.
Trong giai đoạn cầm quyền này, Việt Nam đã có hai cơ hội lớn để khai dụng, đó là; 1/ Nguồn nhân lực ở miền Nam có nhiều kiến thức khoa học kỹ thuật và một hạ tầng kinh tế vững chắc của Việt Nam Cộng Hòa để lại; 2/ Chính quyền Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Jimmy Carter đã có ý muốn thiết lập bang giao với Hà Nội. Nhưng hai cơ hội lớn đã bị Lê Duẩn và lãnh đạo Hà Nội phá hủy chỉ vì sự cao ngạo “thắng Mỹ” và đam mê “nhuộm đỏ” Đông Dương.
Nhận xét về giai đoạn 10 năm này, ông Trần Xuân Bách, lúc còn là Ủy viên Bộ chính trị, đã trả lời phỏng vấn của ký giả Hiebet, tờ Viễn Đông Kinh Tế vào tháng 12/1989 như sau: “Sau mười năm chiến thắng, chúng tôi đã thấy thất bại, lầm lỗi vì quá chủ quan. Chúng tôi cố gắng kỹ nghệ hóa nhưng chưa làm được những nền tảng vững chắc. Những cơ cấu quản trị cũ kỹ đã làm đình trệ sự đổi mới về kinh tế này.” Ông Trần Xuân Bách sau đó đã bị thất sủng vì những nhận thức thẳng thắn này.
Trong tình trạng đất nước tan hoang như vậy, dân tộc Việt Nam đã không đầu hàng nghịch cảnh, những người yêu nước đã can đảm vùng lên dựng ngọn cờ chính nghĩa dân tộc với mục tiêu đấu tranh giải phóng Việt Nam khỏi ách độc tài CSVN và xây dựng nền tự do dân chủ.
Ý chí đấu tranh này đã không chỉ hun đúc nơi thế hệ tỵ nạn đầu tiên vào những thập niên 70 và 80 mà còn tiếp tục lưu truyền cho các thế hệ trẻ sau này ở hải ngoại, và nhất là đã chuyển lửa đấu tranh vào tận quốc nội ngày nay./.
Leave a Comment