Người dân có thể ít quan tâm và cũng chẳng màng tới công danh địa vị lợi ích, nhưng đối với giới “chính khách tinh hoa” ở Việt Nam, cái kết cục của Vũ “Nhôm” là một bài học phải trả bằng máu cho giới “tình báo kim tiền” và “phe cánh chính trị” ở Việt Nam.
Đã từ rất lâu, trong giới tình báo công an lẫn quân đội chuyên dùng hoạt động “xã hội hóa” làm bình phong, “quyền lực bóng tối” hay “quyền lực hậu trường” là những khái niệm nằm lòng và rất được ưa thích. Học tập kinh nghiệm từ giới tình báo KGB ở Liên Xô, STASI của Cộng Hòa Dân Chủ Đức và cả CIA của Mỹ, một trong những mục đích không bao giờ công bố của nhiều tình báo viên vừa chính quy vừa “xã hội hóa” ở Việt Nam là sử dụng và phát huy tối đa “quyền lực bóng tối” để chi phối, can thiệp và cả thao túng hoặc chính trường, hoặc thương trường, hoặc cả hai.
Cả hai thứ trên không chỉ là mục đích mà còn là một đặc trưng tâm lý kiêu binh và “tự sướng” của một số tình báo viên: dưới một ít người nhưng trên vạn người.
15 năm trước khi xảy đến vụ Phan Văn Anh Vũ, trong chính trường Việt đã xảy ra một vụ đại án an ninh quốc gia: T4.
Dù chưa bao giờ được đảng hay chính phủ công bố chính thức, nhưng vụ việc này đã được giới cán bộ lão thành đặc biệt quan tâm và đòi hỏi phải bạch hóa. Người ta cũng biết T4 là một bí số cho một nhân viên tình báo tưởng tượng của một cơ quan tình báo Việt Nam cài cắm “trong một cơ quan đặc biệt ở Mỹ,” để từ đó cung cấp các tài liệu tối mật, tuyệt mật về mối quan hệ của một số quan chức cao cấp Việt Nam với “kẻ thù số một,” cụ thể là với CIA. Cũng từ đó, một số nhân viên tình báo “xã hội hóa” dùng tài liệu tình báo giả, kể cả tài liệu chính trị nội bộ giả của “Phủ đặc ủy trung ương tình báo VNCH” để khống chế một số quan chức.
T4 có tác dụng là vừa được thành tích vừa được tiền ngân sách cấp. Cho đến khi vụ này vỡ lở và hàng loạt sĩ quan tình báo phải ra tòa…
Nhưng 15 năm sau vụ T4, chắc chắn Vũ “Nhôm” đã vượt mặt anh chị tình báo đi trước, khi nhân vật này là trường hợp “cả hai” – thao túng cả thương trường lẫn chính trường.
Quả báo chính trị
Hình ảnh viên thượng tá tình báo công an Phan Văn Anh Vũ chỉ tay vào mặt Huỳnh Đức Thơ – chủ tịch thành phố Đà Nẵng – mà hỏi “Có muốn làm nữa hay là nghỉ?” là một biểu trưng chói lọi nhất từ trước đến nay cho vai trò của một tình báo viên “xã hội hóa,” điều mà trước đó hiếm có nhân vật nào trong giới tình báo hay an ninh dám làm hay làm được. Hình ảnh thật tiêu biểu về “chiến tích” ấy khiến Vũ “Nhôm” đã qua mặt nhiều đồng nghiệp và cấp trên của mình để trở thành một thứ tài phiệt chính trị, trở thành nhân vật được đồng nghiệp và giới quan chức cùng kinh doanh xa gần e sợ gọi là “bố già,” tạo được tác động không chỉ mang tính can thiệp mà cả khống chế và thao túng giới quan chức chính trị và giới doanh nhân.
Xét trên phương diện cá nhân, một cách nào đó có thể xem biểu trưng trên là thành công lớn của Vũ “Nhôm” – trên con đường hoàn tất chu kỳ “chủ nghĩa tư bản dã man trong ý thức hệ độc đảng” ở Việt Nam trong vài thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21.
Nhưng điều “đáng tiếc” cho Phan Văn Anh Vũ là viên sỹ quan tình báo “xã hội hóa” này đã không biết điểm dừng trong cái vòng xoáy tiền – quyền – tiền hoặc quyền – tiền – quyền vô độ.
Một thứ bệnh đặc trưng của giới sĩ quan tình báo “xã hội hóa” là say sưa với chuỗi hiệu ứng mà mình tạo ra được nơi “con mồi,” để từ đó dấn sâu vào thế giới ảo tưởng và sau đó là thế giới hoang tưởng về thứ quyền lực mà mình có được, bất chấp những bài học nhãn tiền của một thế giới ngầm mà nguy cơ bị “hy sinh” hay bị thủ tiêu không hề nhỏ.
Nhưng có một điều mà ngay cả những sĩ quan tình báo lão luyện nhất cũng không thể an tâm tuyệt đối về số phận của mình là những biến động khôn lường – xảy ra theo quy luật hoặc chẳng theo quy luật nào – trong chính trường Việt Nam. Đặc biệt là vào những khoảng thời gian mà nội bộ dậy sóng về chuyện “phe cánh chính trị,” tức nói thẳng theo cách dân gian là các phe phái trong nội bộ đảng đấu đá, xung đột lẫn nhau.
Nếu trước khi Nguyễn Tấn Dũng trở thành thủ tướng vào năm 2008, xung đột nội bộ chủ yếu mang đặc trưng quyền lực, thì sau đó có cả hai đặc trưng: vừa quyền lực vừa lợi ích. Chính Nguyễn Tấn Dũng đã trở thành nhân vật tiên phong mở đường cho cuộc chạy đua thôn tính và sát phạt giữa các nhóm lợi ích với nhau, kéo theo cả một bộ phận “sỹ quan tình báo” và “sĩ quan an ninh” tham gia – theo cách gọi rất sính là “cả hệ thống chính trị vào cuộc.”
Cuộc chiến quyền lực Nguyễn Tấn Dũng – Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Phú Trọng với những đối thủ đương thời là những tiêu biểu của “phe cánh chính trị,” chỉ thỏa hiệp nhưng không thỏa mãn và kết cục phải có thắng – thua.
Có vẻ như Vũ “Nhôm” đã lao vào cái hệ thống chính trị ấy một cách quá nhiệt tình và sâu đậm, nhưng lại không thể ngờ được một lúc nào đó chính Vũ sẽ bị “hy sinh.”
Hết dư địa thời gian
Vào quý 4 năm 2016 và song trùng với Hội Nghị Trung Ương 4 về “chống tự diễn biến, tự chuyển hóa,” Nguyễn Phú Trọng đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề “cải tổ” Bộ Công An. Đến khoảng đầu năm 2017, có những dấu hiệu cho thấy Nguyễn Phú Trọng đã bắt đầu triển khai chủ trương “tinh gọn bộ máy ngành công an.” Nhiều tổng cục sẽ bị thu hẹp, nhiều nhân sự cao cấp trong Bộ Công An sẽ phải “về vườn” hoặc “ngồi chung ghế” với nhau.
Còn sau vụ bắt cựu ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng vào đầu Tháng Mười Hai, 2017, chủ trương “cải tổ” Bộ Công An đã được chính thức công bố.
Hầu như chắc chắn, Tổng Cục Tình Báo thuộc Bộ Công An – “cái nôi” của cựu Thượng Tá Phan Văn Anh Vũ – sẽ nằm trong số những trọng điểm “thay máu” của ông Trọng. Sẽ có những quan chức công an phải “hy sinh”…
Thế nhưng bất chấp những cố gắng “còn nước còn tát” của ông Nguyễn Phú Trọng, vụ Vũ “Nhôm” là một biểu hiện quá rõ của nạn kiêu binh thời “Vua Lê, Chúa Trịnh” trong lịch sử Việt Nam, đương nhiên trở thành tiền đề không thể rõ hơn dẫn đến tương lai từ phân rã đến ra đi của một chế độ không còn dư địa thời gian trong quy luật lịch sử./.
Leave a Comment