Nam Quỳnh – Luật Khoa tạp chí|
Một cái nhìn lướt qua số phận của khái niệm “pháp chế xã hội chủ nghĩa” tại Việt Nam cho chúng ta một vài sự thật mà những người cộng sản Việt Nam không muốn quá nhiều người biết: thứ nhất, họ đã luôn “tự diễn biến” để sinh tồn; thứ hai, trong quá trình tự diễn biến đó, họ đã không ngần ngại áp đặt một cách máy móc những tư tưởng triết lý luật pháp từ châu Âu.
***
Một ngày năm 2018, bạn đang chen chúc giữa một đám đông cổ động viên bóng đá nhốn nháo. Bạn chỉ có năm giây để thu hút sự chú ý của một người cộng sản Việt Nam, bằng cách thì thầm thật nhanh vào tai người đó. Bạn có thể nói những từ gì?
“Tham nhũng”, “cố ý làm trái”, “xe biển xanh”, “hộ chiếu Antigua & Barbuda”, hay… “Nguyễn Phú Trọng”?
Có một lựa chọn khả dĩ khác, đó chính là “tự diễn biến”.
“Tự diễn biến” trong thế kỷ 21 và “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”
Cụm từ này đã được chú ý từ lâu, nhưng phải đến tháng 10 vừa qua thì nó mới mang một màu sắc khẩn trương và gay gắt hơn, sau khi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW.
Trọng tâm của Nghị quyết này là “ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’ trong nội bộ” Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cụ thể, đảng này sẽ xử lý kỷ luật những tập thể hay cá nhân có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Nghị quyết số 04 đưa ra chín biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ đảng, trong đó bao gồm:
“Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế ‘tam quyền phân lập’, phát triển ‘xã hội dân sự’. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.’
Khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” này, được Đảng Cộng sản Việt Nam tôn thờ trong thế đối lập với “thể chế tam quyền phân lập”, từ lâu đã không còn là một khái niệm xa lạ.
Hiện nằm nghiêm trang trong Khoản 1, Điều 2, Hiến pháp 2013, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” chính là hình thái nhà nước đã được chọn cho Việt Nam trong thiên niên kỷ mới.
Khái niệm này lần đầu tiên được đưa vào Hiến pháp năm 2001 thông qua Nghị quyết 51/2001/NQ-QH10.
Trước đó, Hiến pháp 1992 chỉ đơn thuần ghi rằng “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.” Chữ “pháp quyền” cũng không hề có trong nội dung các điều khác.
Vậy thì “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” từ đâu mà ra?
Đó là một câu chuyện dài, và nó bắt đầu bằng một khái niệm có mặt trong Hiến pháp 1992: “pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là gì?
Theo giáo sư luật John Gillespie (2010) của Đại học Monash (Úc), khái niệm “pháp chế xã hội chủ nghĩa” (socialist legality), được hiểu trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, là một học thuyết cốt lõi về cách cai trị bằng luật pháp theo tư tưởng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nó bao gồm bốn nguyên tắc:
- “Đảng lãnh đạo”: cả nhà nước và xã hội phải đi theo sự dẫn dắt của Đảng Cộng sản;
- Luật pháp là “ý chí của giai cấp thống trị”, nhưng luật pháp không được phép nằm trên nhà nước, mà phải bắt nguồn từ nhà nước. Giai cấp thống trị trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là giai cấp lao động, công nhân-nông dân-trí thức. Đảng Cộng sản được xem là đại diện đương nhiên của giai cấp này;
- Đảng và nhà nước có các đặc quyền áp đặt việc sử dụng chính sách thay vì sử dụng luật pháp. Khi đảng hay nhà nước cần, chính sách có giá trị cưỡng chế cao hơn luật;
- Các quyền cá nhân phải nhường nhịn cho các quyền tập thể.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa đã vào Việt Nam như thế nào?
Ngắn gọn mà nói thì “pháp chế xã hội chủ nghĩa” là một học thuyết nhấn mạnh việc cai trị đất nước bằng luật pháp.
Mặc cho những ngôn từ “có cánh” về nhân quyền và pháp luật trong Hiến pháp 1946, thực tế là những người cộng sản không thật sự có ý định dùng luật pháp để cai trị đất nước ngay từ những ngày đầu độc lập.
Theo Gillespie (2005, 2010), có nhiều lý do khách quan khả dĩ cho việc này.
Thứ nhất là do “văn hóa phản kháng” (resistance culture). Các nhà cách mạng cộng sản đã dành hàng thập niên để tìm cách lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp. Mục tiêu xuyên suốt của họ là lật đổ chính quyền thực dân cùng với các chủ thuyết, triết lý của chính quyền đó, bao gồm việc tôn trọng luật pháp, dùng luật pháp làm công cụ quản lý xã hội. Quán tính từ thứ văn hóa đó dẫn đến thái độ coi thường vai trò của luật pháp.
Thứ hai là do ảnh hưởng từ nền giáo dục cộng sản Trung Quốc. Các lãnh đạo cộng sản chóp bu là ông Hồ Chí Minh và ông Trường Chinh đều là những người đã có thời gian được đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa Trung Hoa.
Một quan điểm của giới nghiên cứu tư tưởng cộng sản Trung Hoa chính là các chủ thuyết chính trị, pháp luật cộng sản của “người anh cả” Liên bang Xô Viết khó mà đem áp dụng trực tiếp vào môi trường văn hóa làng xã với các khung thứ bậc xã hội rất riêng của các nước Đông Á.
Để đưa các học thuyết chính trị cộng sản vào đời sống nhân dân, những người cộng sản Trung Hoa cho rằng họ phải tìm cách lồng các học thuyết cộng sản vào ngôn ngữ đạo đức Khổng giáo, vốn đã quen thuộc hàng ngàn năm với người dân Đông Á, đặc biệt là người Trung Hoa và người Việt Nam.
Hai lý do nêu trên, theo Gillespie (2004, 2005), có khả năng là đã góp phần khiến cho các nhà lãnh đạo cộng sản tại Việt Nam sau 1945 chọn “đức trị” (virtue rule hay morality rule) nhiều hơn là dùng luật pháp làm công cụ quản trị xã hội.
Bên cạnh việc lợi dụng ngôn ngữ Khổng giáo, các cán bộ cộng sản phải thể hiện là họ không chỉ có kiến thức cao siêu hơn, mà còn có tư cách đạo đức tốt hơn những người dân bình thường. Qua đó, họ trở thành những “tấm gương” tạo thiện cảm cá nhân với người dân, và họ dùng các mối quan hệ cá nhân với quốc dân đồng bào như thế để khuyên răn, dìu dắt, và quản lý xã hội.
Không phải tình cờ mà ông Hồ Chí Minh – qua các ghi chép và phát biểu – đã liên tục đặt nặng vai trò lãnh đạo của đảng mình trên bình diện đạo đức cũng như tính “chính nghĩa”.
Các nghiên cứu của giáo sư luật Mark Sidel (2008) của Đại học Wisconsin (Mỹ) cho thấy “đức trị” đã không hề nghiễm nhiên lên ngôi tại Việt Nam. Bên trong nội bộ đảng, những người cộng sản Việt Nam cũng đã xảy ra tranh cãi nội bộ, khi một vài cá nhân nổi bật cổ xúy cho việc dùng luật pháp làm công cụ cai trị thay vì đạo đức, như Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường và Vũ Đình Hòe.
Tuy nhiên, phe “luật trị” đã thua phe “đức trị”.
Chỉ có một thứ mới có thể làm cho phe “đức trị” đổi ý: khủng hoảng, cụ thể là từ phong trào Cải cách Ruộng đất theo tư vấn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, diễn ra từ năm 1953 đến năm 1956.
“Đức trị” và các chỉ dẫn từ Trung Hoa đã góp phần dẫn đến một thảm họa chính sách cho những người cộng sản Việt Nam: bên cạnh cái chết của hàng ngàn người dân, bao gồm cả những người đã đóng góp tiền của cho phong trào Việt Minh, thứ văn hóa đấu tố vô pháp từ phong trào đã gây chia rẽ sâu sắc trong xã hội Việt Nam.
Các hậu quả nặng nề của cải cách ruộng đất đã đe dọa tính chính danh của những người cộng sản Việt Nam trong vai trò lãnh đạo đất nước. Việc này nghiêm trọng đến mức ông Hồ Chí Minh phải viết thư xin lỗi người dân, đồng thời (theo nhiều nguồn) đã phải phái tướng Võ Nguyễn Giáp thay mặt mình và đảng mình công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất tại một cuộc mít tinh lớn tại Nhà hát Nhân dân Hà Nội vào ngày 29/10/1956.
Theo Gillespie (2004) và Bui (2014), sự sụp đổ của mô hình “đức trị” gốc Trung Hoa đã đẩy những người cộng sản đến chỗ phải lần đầu tiên “tự diễn biến”: họ buộc phải từ bỏ cái mô hình cũ đầy tội lỗi và đi tìm một mô hình mới cho việc quản lý đất nước.
Các chuyên gia Liên Xô đã trở thành những người hùng mới trong bối cảnh đó, bởi vì họ có trong tay một công cụ đắc lực mà những người cộng sản Việt Nam đang gấp rút cần có trong cơn khủng hoảng: социалистическая законность (sotsialisticheskaya zakonnost’), hay chính là “pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Khi được đưa vào Việt Nam, “pháp chế xã hội chủ nghĩa” đã được tung hô như là một công cụ của nền chuyên chính vô sản, giúp cho nền chuyên chính vô sản đánh bại kẻ thù, bảo vệ cách mạng và bảo vệ các quyền dân chủ tập thể của người dân.
Hoàn toàn có thể hiểu “pháp chế xã hội chủ nghĩa” đã có sức hút với những người cộng sản Việt Nam như thế nào.
Tuy nó ưu tiên việc dùng luật pháp làm công cụ quản lý, học thuyết này vẫn đặt đảng cộng sản vào một vị trí làm chủ vững chãi: họ có thể vừa là bên nắm quyền định đoạt nội dung luật, thông qua “ý chí giai cấp thống trị” (vốn luôn được đánh đồng một cách dễ dãi thành “ý chí của đảng”), vừa là bên luôn có thể dùng chính sách của mình để “dập” luật mỗi khi cần.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III, diễn ra vào tháng 9/1960, đã lần đầu tiên công khai đón nhận khái niệm “pháp chế xã hội chủ nghĩa” vào hệ thống tư tưởng của đảng này.
15 năm sau khi giành được độc lập, miền bắc Việt Nam lần đầu tiên có một chính phủ chịu dùng luật pháp làm công cụ chính yếu để quản trị đất nước
Tự diễn biến , tự chuyển hoá mạnh hơn nữa , không chỉ dừng ở việc không xài tiếng Tàu , không học chữ Tàu , cấm các bảng chỉ đường bằng tiếng Tàu : mà sẽ không làm bạn với Tàu trong 1 thời gian dài (2,3,4 năm ? ) khi ấy Tập cận Bình sẽ nhớ bạn , thương bạn ,nể bạn ?