Tiết kiệm là một chủ trương lớn của nhà nước Việt Nam ít nhất cũng bằng lời nói, chẳng phải bây giờ mà từ rất lâu rồi. Tôi không biết lần đầu nhà nước hô hào tiết kiệm là thời gian nào, chỉ biết là ngay từ khi đang đánh nhau với Pháp. Tôi lớn lên đã nghe nói đến. Lớn tí nữa thì thấy trên các đường phố, nơi công cộng có những khẩu hiệu hô hào tiết kiệm. Hồi năm 197x, có lần đi trên đường phố thị xã Sơn Tây tôi thấy một cái pano viết: “Tiết kiệm nhà nước hô hào /Anh chị đã gửi đồng nào hay chưa?”. Đọc thấy bật cười vì ngồ ngộ về chữ nghĩa nhưng rõ ràng nó phản ánh chủ trương tiết kiệm của nhà nước. Tới thập niên 80 thì thấy nâng tiết kiệm lên thành “quốc sách”, rồi “quốc sách hàng đầu”. Nói thế để biết nhà nước ngày càng coi trọng tiết kiệm, càng nợ nần, càng hô hào mạnh.
Đấy là đề cập tới chuyện nói chứ không phải chuyện làm. Cứ xem các quan lớn phá của dân, ăn chơi trác táng, trụy lạc thì đủ biết họ có tiết kiệm không. Chuyện này các quan biết, dân biết, người lớn tới trẻ con đều biết nên không kể ra ở đây.
Tiết kiệm ngoài hạn chế tiêu pha còn là sử dụng hợp lý đồng tiền, vật tư, lao động trong sản xuất kinh doanh, trong tiêu dùng. Gửi tiền nhàn rỗi lấy lãi suất là một nội dung của tiết kiệm, là hưởng ứng hoặc hợp với chủ trương của nhà nước. Ngân hàng làm tốt điều này thì người gửi và người vay đều có lợi. Vậy mà gần đây, việc gửi tiền vào ngân hàng lại bị chỉ trích nặng nề. Trong khi luật sư Trương Thanh Đức cho rằng gửi tiền vào ngân hàng là “kinh doanh”, người gửi ham lãi suất thì phải chịu rủi ro là đúng thì chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành cho gửi tiết kiệm không chỉ là ham lãi nữa mà là mang “giấc mơ làm giàu” cần phải “thức tỉnh” bằng cách cho ngân hàng phá sản.
Nếu chỉ cảnh báo đừng đặt lòng tin vào ngân hàng yếu kém thì không nói làm gì. Nhưng chỉ trích, qui kết người gửi như thế là không nên. Ý kiến của ông Thành và ông Đức nhận được nhiều lời chê bai trên mạng xã hội.
Vậy ngân hàng đã đem lại cho người gửi tiền những gì? Khi mang tiền nhàn rỗi của mình ra ngân hàng gửi, họ đã rất tội nghiệp. Họ phải gửi vì không có khả năng hoặc điều kiện kinh doanh nên không biết làm gì hơn. Cái gọi là lãi tiền gửi chỉ nhằm bù đắp hoặc bù đắp phần nào giá cả tăng do lạm phát, tức là đối phó với sự mất giá của đồng tiền. Vì vậy, không thể nói họ có thể làm giàu từ tiền gửi. Đã xảy ra những chuyện dở khóc dở cười như “12 sổ tiết kiệm trị giá căn nhà: Sau 20 năm còn 3 bát phở”, “Gửi tiết kiệm một chỉ vàng, hơn 30 năm sau nhận lại…20.000đồng”, “Gửi tiết kiệm 2 chỉ vàng sau 34 năm còn 0 đồng”
Còn chuyện tiền gửi bị “bốc hơi”, mất hàng trăm tỉ hiện nay không hiếm, báo chí đã thông tin khá nhiều.
Gán cho có giấc mơ làm giàu, ham lãi suất nhưng huy động vốn trong dân không dễ.
Đợt khủng hoảng tiền tệ năm 1986-1988 do cải cách Giá-Lương-Tiền đã cuốn phăng ghế của một ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mà trước đó đã có “triệu chứng” Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Lạm phát lên tới 774%, một số mặt hàng tăng giá gấp vài nghìn lần so với 10 năm trước. Lãi tiền gửi có lúc lên tới 12% /tháng. Nhiều người không dám gửi tiết kiệm mà đi mua hàng… cất đi như một hình thức giữ của đã gây nên tình trạng thiếu giả tạo, hàng tiêu dùng đã khan hiếm lại càng khan hiếm thêm.
Vốn trong dân hiện nay còn nhiều dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền Việt nhưng thu hút đâu có dễ. Nhà nước đang tính cách huy động nguồn vốn này nhưng chưa biết bằng cách nào. Thế nhưng một ông chuyên gia kinh tế và một ông luật sư lại chỉ trích những người gửi tiền vào ngân hàng là mang giấc mơ làm giàu rồi “dọa” cho ngân hàng phá sản để trị căn bệnh ham lãi. Vừa chỉ trích, vừa “dọa”, điều này tác động rất nhiều đến tâm lý người dân và vì vậy việc huy động tiền nhàn rỗi trong dân đối với các ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Tiền không huy động được trong khi doanh nghiệp lại thiếu vốn sản xuất kinh doanh thì nền kinh tế làm thế nào “cất cánh”?
Và như thế sẽ sinh ra khả năng tiền nhàn rỗi trong dân lại tìm đến tư nhân hoặc họ lại tiêu pha cho hết hay mua nhà đất rồi để đấy. Khi đó, nguồn vốn không được tham gia vào quá trình tái sản xuất và lại gây ra tình trạng giá ảo. Sự tin cậy đối với các ngân hàng thương mại sẽ không còn nữa. Cho tư nhân vay dẫu có rủi ro nhưng không rủi ro bằng việc chỉ bảo hiểm tiền gửi với mức 75 triệu đồng/sổ, nhiều người hàng tỉ đồng sẽ bị mất trắng. Nếu như trước đây, người dân tin tưởng ở ngân hàng mà đem tiền đi gửi, từ chối cho tư nhân vay dù lãi gấp nhiều lần vì có nhiều rủi ro thì bây giờ, nếu độ rủi ro khi gửi tiền vào ngân hàng cao hơn thì xu hướng của đồng tiền nhàn rỗi có thể đảo lại. Tạo điều kiện cho dân thực hiện “giấc mơ làm giàu” nhưng đâu có dễ được chấp nhận.
Chính sách bất công, vô lý
Vì vậy mới có nhiều ý kiến cảnh báo về những hệ lụy khi cho ngân hàng phá sản. Đành rằng việc cho ngân hàng phá sản có cơ sở pháp luật nhưng với việc hạn chế số tiền bảo hiểm ở mức 75 triệu đồng rõ ràng là không ổn. Có những điều rất không công bằng ở đây. Vốn chủ sở hữu bị âm, ngoài do nợ xấu, nợ khó đòi còn do tiền người gửi chui vào túi quan chức ngân hàng. Những vụ án ngân hàng đã nói lên điều đó. Làm ăn be bét nhưng lương nhân viên ngân hàng lại cao hơn hẳn nhiều ngành nghề khác. Sinh viên ra trường “chui” được vào ngân hàng là một ước mơ. Tiệc tiễn một ông phó thống đốc ngân hàng nhà nước về hưu vừa rồi xa hoa lãng phí như vậy chỉ là một ví dụ. Tiền ở đâu ra nếu không phải là tiền của người gửi? Ông Bùi Kiến Thành khăng khăng không thể tăng bảo hiểm tiền gửi vì ngân hàng không có tiền. Tại sao không có tiền? Tiền của người gửi đi đâu? Nó đã bị các quan chức ngân hàng sử dụng bừa bãi, đút vào túi riêng hoặc để cho kẻ khác chiếm đoạt. Đến khi phá sản chỉ trả cho khổ chủ một khoản qui định là xong khác nào ăn cướp thì hỏi công bằng ở đâu? Chỉ cần một tuyên bố phá sản, họ đã cướp không của người gửi hàng nghìn tỉ đồng. Không thấy ai nói trách nhiệm của quan chức ngân hàng trước pháp luật như thế nào? Có tịch thu tài sản của kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm để phát mại, bù đắp cho người gửi ra không. Họ phủi tay đơn giản như thế chăng?
Các quan chức nhà nước “hơn người” ở chỗ đó. Nếu như chủ doanh nghiệp tư nhân cần có đầu óc kinh doanh, ngày đêm lăn lộn trên thương trường vốn đã không có cạnh tranh bình đẳng, làm ăn thua lỗ phải chịu một mình thì các quan nhà nước không cần trình độ, cứ ung dung ngồi đấy mà đục khoét, làm việc bằng cái đầu cũng rỗng của cấp dưới còn ông ta chỉ biết ký. Doanh nghiệp hết vốn được nhà nước rót tiếp, thua lỗ thì được khoanh nợ, treo nợ, xóa nợ. Thật lạ lùng khi quan chức nhà nước làm chủ tịch cũng được, bí thư cũng được mà giám đốc ngân hàng cũng được. Bằng chính trị cao cấp có thể thạo về xây dựng đảng chứ biết gì về nghiệp vụ ngân hàng mà “dám đốc”. Một điều hết sức vô lý như vậy nhưng đường lối thì vẫn khăng khăng kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Phải chăng vì doanh nghiệp nhà nước là phương tiện để làm giàu bất chính cho không chỉ giám đốc mà cho các quan chức nói chung?
Cách gì thì người dân cũng chịu thiệt hại. Đáng tiếc rằng có những người mang tiếng là danh vị này nọ không bệnh vực lại còn chỉ trích họ như những những người xấu tính, vào hùa với kẻ trấn lột như ông chuyên gia kinh tế và ông luật sư trên.
Nguồn: nguyentuongthuy’s blog
Leave a Comment