Bài đọc trong lễ tưởng niệm Lưu Hiểu Ba, giải Nobel Hòa bình 2010
Đó là ngọn lửa của trí tuệ và lòng quả cảm của người trí thức đích thực, người đấu tranh cho nhân quyền hàng đầu của Trung Quốc, giải Nobel Hòa bình 2010.
Bị bắt năm 2008 và bị kết án 11 năm tù giam với cáo buộc “âm mưu lật đổ nhà nước”, Lưu Hiểu Ba vừa qua đời ở tuổi 62 tại một bệnh viện thuộc thành phố Thẩm Dương sau một thời gian ngắn điều trị bệnh ung thư gan. Giáo sư Lưu Hiểu Ba là biểu tượng của một nhân cách trí thức với bản lĩnh “uy vũ bất năng khuất”, bền bỉ và quả cảm đấu tranh cho khát vọng tự do và dân chủ chống lại chế độ toàn trị phản dân chủ đang thống trị hơn một tỷ dân Trung Quốc.
Sau khi đã thụ án được 8 năm, ngày 23/5/2017 ông bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư gan và được đưa ra khỏi nhà tù để điều trị tại một bệnh viện ở tỉnh Thẩm Dương. Chính quyền Bắc Kinh đã khước từ yêu cầu của gia đình giáo sư Lưu Hiểu Ba và một số Chính phủ cùng với Tổ chức Nhân quyền Quốc tế về việc cho ông sang Mỹ hoặc Đức chữa bệnh. Lý do sự khước từ đó chẳng có mấy khó hiểu đối với nhà cầm quyền Trung Quốc cũng như với mọi nhà nước của chế độ toàn trị phản dân chủ khác. Tuy nhiên, đối với Trung Quốc thì càng là điều cấm kỵ vì tên tuổi của Lưu Hiểu Ba gắn liền với cuộc đấu tranh vạch trần vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989.
Vào năm đó, giáo sư Lưu Hiểu Ba đang thỉnh giảng tại Đại học Columbia ở New York Hoa Kỳ đã không chút do dự mà quyết định bay ngay về Bắc Kinh để đồng hành với sinh viên và thanh niên Trung Quốc trong cuộc đấu tranh đòi tự do trong các cuộc biểu tình ôn hòa. Chính ông đã tham gia thương thuyết với quân đội được điều đến để bắn giết không nương tay những người trẻ tuổi trên quảng trường Thiên An Môn. Ông đã góp phần cứu hàng trăm người biểu tình thoát khỏi họng súng của những công cụ chỉ biết bóp cò theo lệnh.
Cũng chính vì vậy, sau vụ thảm sát Thiên An Môn đến trước năm 2008, nhà trí thức Lưu Hiểu Ba liên tục bị khủng bố, đe dọa và đã từng hai lần bị bắt đi tù. Vào tháng Giêng năm 1993, ông được mời sang Úc tham gia phỏng vấn trong cuộc thực hiện bộ phim tài liệu biến cố Thiên An Môn. Đã có lời khuyên ông nên ở lại Úc nhưng ông quyết liệt từ chối và khẳng định rằng “cuộc đời tôi là để góp phần xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho Trung Quốc và điều đó có nghĩa là tôi phải sống tại quê nhà. Đó là quê hương của tôi”.
– Từ Lưu Hiểu Ba nhớ về Đinh Đăng Định
– Cuộc khổ nạn của Lưu Hiểu Ba
– Lưu Hiểu Ba đi xa nhưng tinh thần còn mãi
Chính trên quê hương mình, ông đã dấn thân vào cuộc đấu tranh đòi tự do dân chủ và nhân quyền trước mọi thủ đoạn đàn áp khủng bố khốc liệt của nhà cầm quyền Bắc Kinh mà bản án 11 năm tù vào năm 2009 (sau hơn 1 năm bị tạm giam) đến khi ông qua đời là một minh chứng. Và cũng như mọi tù nhân chính trị khác, những năm đó bà Lưu Hà, vợ ông, bị nhà cầm quyền khủng bố, đe dọa, ngăn cản quyền tự do đi lại. Sau khi ra tù lần thứ ba vào tháng 10 năm 1999, Lưu Hiểu Ba tập trung viết sách với chủ đề chính là khát vọng dân chủ. Tính đến năm 2008, ông đã viết khoảng 800 bài luận văn có giá trị và xuất bản nhiều cuốn sách. Ông đã thật sự trở thành nỗi sợ hãi của chính quyền Bắc Kinh. Họ cấm ông xuất bản sách tại Trung Quốc. Những cuốn sách của ông từ sau năm 2000 chỉ được xuất bản ở Đài Loan và Hong Kong. Song điều ấy không thể ngăn cản việc ông được bầu làm Chủ tịch Trung tâm Văn Bút Quốc Tế Độc lập của Trung Quốc từ năm 2003 tới 2007.
Năm 2008, Trung Quốc tổ chức Thế Vận Hội Bắc Kinh, việc kiểm soát các ngòi bút tự do được nới lỏng vì nhà cầm quyền sợ búa rìu của dư luận quốc tế. Nhân cơ hội này, Lưu Hiểu Ba cùng với một vài trí thức đã soạn thảo và công bố Hiến chương 08 kêu gọi cải cách thể chế toàn diện để đưa Trung Quốc trở thành một quốc gia dân chủ, văn minh và hiến trị. Hiến chương này là sự tích tụ của một quá trình tranh luận trong giới trí thức Trung Hoa từ cuối thập niên 90 khi Liên bang Xô Viết sụp đổ. Sự ra đời của nó trùng hợp với một vài sự kiện lịch sử quan trọng trước thềm năm 2009 như tưởng niệm 20 năm vụ thảm sát Thiên An Môn, 50 năm lưu đày của Đức Đạt Lai Lạt Ma, 60 năm kỷ niệm ngày thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và 90 năm từ ngày khởi động phong trào Ngũ Tứ.
Hiến chương 08 đúc kết quá trình tranh luận và diễn đạt sự đồng thuận trong giới trí thức về một lộ trình chuyển đổi từ thể chế độc tài sang dân chủ hiến trị. Mở đầu, Hiến chương viết: “Cho đến ngày hôm nay, tiến trình cải cách chính trị vẫn còn nằm trên giấy: có luật pháp nhưng không có pháp quyền (rule of law), có một bản hiến pháp nhưng không có chính thể lập hiến (constitutional goverment), đây vẫn là thực tế chính trị mà ai cũng có thể thấy”. Và để kết luận, bản Hiến chương kêu gọi mọi công dân Trung Quốc tham gia vào tiến trình xây dựng thể chế dân chủ để hoàn thành trách nhiệm quốc tế của một quốc gia đang là một trong năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Thế là Lưu Hiểu Ba lại bị bắt và bị tuyên án 11 năm tù vì tội “xúi giục chống phá nhà nước”. Trả lời cho sự đê hèn và nhảm nhí của nhà cầm quyền Bắc Kinh, ngày 8/10/2010, Ban Tổ chức Giải Nobel quyết định tặng giải Nobel Hòa bình cho Lưu Hiểu Ba để ghi nhận ý chí đấu tranh ôn hòa bền bỉ cho quyền con người tại Trung Quốc. Đừng quên rằng trước đó, năm 1991 bà Aung San Suu Kyi cũng đã nhận được giải thưởng danh giá này khi đang bị chính quyền quân phiệt Myanmar giam cầm.
Đương nhiên, Bắc Kinh đã lồng lộn phản đối gay gắt việc trao giải thưởng Nobel Hòa bình cho người bị họ bỏ tù. Họ lo sợ nhân cách và phẩm giá của ông đang là một biểu tượng sáng ngời thúc giục cuộc đấu tranh vì nhân quyền, đặc biệt là ảnh hưởng của ông đối với trí thức, sinh viên và thanh niên tại một đất nước mà quyền con người đang bị chà đạp. Nhà cầm quyền Bắc Kinh cũng như mọi chính quyền trong các nhà nước toàn trị phản dân chủ được Bắc Kinh bảo kê đều hết sức run sợ trước tuyên bố của giáo sư Lưu Hiểu Ba: “Không có thế lực nào có thể ngăn chặn được đòi hỏi của con người được có tự do và Trung Quốc cuối cùng sẽ trở thành một quốc gia được điều hành bởi luật pháp, nơi nhân quyền là trên hết”.
Và rồi, giải thưởng Nobel Hòa bình danh giá ấy được dành cho nhà đấu tranh nhân quyền nổi tiếng nhất của Trung Quốc đành phải trao cho “một chiếc ghế trống”! Đây chính là cách vừa lên án sự nhục nhã vô sỉ của chế độ toàn trị phản dân chủ Trung Quốc, và chắc không chỉ dành cho Bắc Kinh, vừa nhắc nhở lương tri của cả loài người cảnh giác để đấu tranh chống lại mọi thế lực phản dân chủ, chà đạp lên quyền tự do của con người trên toàn thế giới.
Vào năm 2011, Tạp chí Dân Chủ (Journal for Democracy) đã đăng lại và có lời bình luận về hai bài tiểu luận của Lưu Hiểu Ba năm 2006 mang tựa đề “Có phải người Trung Quốc chỉ đáng hưởng nền dân chủ do “Đảng dẫn dắt?” (Can it be that the Chinese People Deserve Only “Party-Led Democracy”) và “Thay đổi chế độ bằng cách thay đổi xã hội” (Changing the Regime by Changing Society).
Trong bài thứ nhất, Lưu Hiểu Ba chỉ rõ rằng kẻ thù lớn nhất của phong trào dân chủ không phải chỉ là nhà cầm quyền mà là sự thờ ơ của quần chúng. Vì vậy tương lai của một Trung Quốc tự do phải đến từ nỗ lực tranh đấu của người dân chớ không phải vì sự thoái lui của đảng cầm quyền. Trong bài thứ hai Lưu Hiểu Ba nói lên khát vọng dân chủ qua sự phát triển của sinh hoạt xã hội dân sự, thực thi các giá trị dân chủ trong đời sống hàng ngày và chuyển hóa thể chế sẽ là một quá trình tiệm tiến đầy gian nan từ dưới đi lên.
Giáo sư Lưu Hiểu Ba là người hiểu rõ bản chất ngoan cố của chế độ toàn trị phản dân chủ. Từng trải nghiệm trong cuộc đấu tranh bền bỉ, từ những cuốn sách và những bài viết sắc nhọn với một hàm lượng trí tuệ phong phú, ông đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, nhược điểm của phong trào dân chủ ở Trung Quốc. Nhà trí thức am hiểu sâu sắc về nội dung và thực chất của dân chủ đã nhắc nhở những người “chỉ biết đến dân chủ từ sách vở. Họ không có khái niệm gì về việc thực hành nền dân chủ đó. Họ không hề biết phải xây dựng nền dân chủ như một hệ thống chính trị và một tòa nhà pháp lý như thế nào và phải đưa những nội dung gì vào đó”. Theo ông, đúng là “quảng trường Thiên An Môn đã biến thành hòn đá thử lửa. “Tôi đã có mặt ở đó”, “Tôi cũng từng đến đó”, những câu nói ấy đã được coi là chứng chỉ của ý thức dân chủ và lương tri xã hội”. Nhưng như thế chưa đủ!
Với ông, “khi cảm giác về nghĩa vụ gánh vác một sứ mệnh lịch sử bị đẩy lên thái quá, các sinh viên đã đánh mất khả năng tỉnh táo để tự nhận định và khả năng tự kiềm chế để đạt hiệu quả cao. Họ không biết rằngnhững đôi vai mảnh khảnh của họ không gánh nổi một định mệnh nặng trĩu như vậy. Họ không cưỡng được sự cám dỗ rằng mình có thể đem lại công lý và tưởng rằng cứ lấy sinh mạng ra trả giá thì chính quyền sẽ buộc phải nhượng bộ”. Sự thực không hoàn toàn như vậy, Lưu Hiểu Ba vạch rõ: “Từ trên bốn thập kỷ nay Trung Quốc không hề có kinh nghiệm gì với dân chủ. Hàng ngày chúng ta chỉ trải qua và chứng kiến những tranh giành và thủ đoạn tàn bạo của hệ thống chuyên chế”.
Dẫn ra lời tự bạch của một cô sinh viên từng có mặt ngày 4.6 đẫm máu: “trên Quảng trường Thiên An Môn khi đó, quan trọng nhất là đức hy sinh và lòng dũng cảm chứ không phải đầu óc và lý trí”, nhà đấu tranh cho nhân quyền hàng đầu của Trung Quốc đặt ra câu hỏi: “Mạng người có gây nổi một ấn tượng nào với chính quyền không? Có đánh thức nổi đám đông đang ngủ vùi không? Cái chết có đem đổi lấy công lý được không?”.
Cách đặt vấn đề của Lưu Hiểu Ba, các ý kiến phê phán của ông không phải là không gây sóng gió trong phong trào dân chủ Trung Quốc, đặc biệt là với những gia đình nạn nhân của vụ thảm sát 4-6. Tuy vậy, cả sự nghiệp, nhân cách và bản lĩnh của người trí thức quên mình dấn thân vì nghĩa lớn không mảy may khuất phục trước bạo quyền đã là một đảm bảo vững chắc cho cách đặt vấn đề rất trí tuệ và hết sức tường minh của Lưu Hiểu Ba: “Vì sao một công lý trên giấy thì được săn lùng cuồng nhiệt, còn công lý tỉnh táo của hiện thực thì bị gạt ra ngoài”.
Ông đòi hỏi sự tỉnh táo của những người dấn thân cho sự nghiệp dân chủ mà khí phách của người chiến sĩ đấu tranh cho tự do của ông đã chứng minh cho lập luận đó. Điều này không hề mâu thuẫn với sự quên mình vì “khát vọng dân chủ qua sự phát triển của sinh hoạt xã hội dân sự, thực thi các giá trị dân chủ trong đời sống hàng ngày và chuyển hóa thể chế sẽ là một quá trình tiệm tiến đầy gian nan từ dưới đi lên” như ông đã viết ra từ năm 2006 mà tờ Journal for Democracy năm 2011 đăng tải như đã dẫn.
Ông không phủ nhận cái “chứng chỉ của ý thức dân chủ và lương tri xã hội” mà những sinh viên và thanh niên Trung Quốc tự hào vì họ có mặt tại Thiên An Môn trong ngày 4 tháng 6 đẫm máu. Hình ảnh một người đơn độc đứng hiên ngang trước mũi xe tăng đang chực chồm lên nghiền nát những người có mặt trên quảng trường Thiên An Môn buổi ấy mãi mãi đi vào lịch sử. Không chỉ lịch sử của Trung Quốc, mà là lịch sử của tất thảy mọi con người sống trên quả đất này dám quả cảm đối mặt với bạo quyền, dám hy sinh mạng sống của mình cho tự do.
Tuy nhiên, người trí thức quả cảm và đầy bản lĩnh ấy có một quan niệm sống và đấu tranh rất đáng suy ngẫm: “Với cái chế độ đã cướp đoạt tự do của tôi, tôi muốn nói với họ rằng tôi vẫn giữ vững niềm tin mà tôi đã biểu thị trong tuyên bố tuyệt thực ngày 2 tháng sáu hai mươi năm về trước: tôi không có kẻ thù và cũng không căm thù… Bởi vì căm thù có thể làm biến chất trí khôn và sự sáng suốt; hệ tư tưởng địch-ta có thể làm nhiễm độc đầu óc của nhân dân, kích động những sự tranh giành vô độ, hủy hoại sự khoan hòa và lý trí của xã hội, ngăn cản không cho dân tộc vươn tới tự do và dân chủ. Vì thế mà tôi mong muốn vượt qua số phận cá nhân mình để chú tâm trước hết vào sự phát triển của đất nước, vào tiến trình của xã hội, ứng phó với sự thù nghịch của chính quyền bằng tấm lòng đại lượng để hóa giải căm thù trong tình thương”.
Có thể ai đó chưa hoàn toàn đồng ý với ông. Điều ấy không quá khó hiểu. Mỗi người cần giữ cho mình một chính kiến để chọn lựa cách thế ứng xử và phương thức hành động khi tin rằng đó là đúng. Đồng thời cũng phải tôn trọng chính kiến của người khác mà họ cho là đúng, tuy không giống với mình. Điều quan trọng là mục tiêu cùng hướng tới. Và Lưu Hiểu Ba dõng dạc nói lên điều đó ngay trong tình trạng cực kỳ bi đát của thân phận mình: “Tôi thực sự lạc quan về sự xuất hiện một nước Trung Quốc tự do trong tương lai, bởi vì không một sức mạnh nào có thể ngăn chận được khát vọng tự do của con người. Trung Quốc cuối cùng sẽ trở thành một Nhà nước pháp quyền, đặt quyền con người lên hàng đầu”.
Thưa các bạn,
Chúng ta hôm nay có mặt tại đây để tưởng niệm ông, chân thành chia sẻ với ông niềm tin mãnh liệt của người chiến sĩ đã dấn thân vì mục tiêu cao cả, con người cao đẹp đó đã vĩnh viễn nằm xuống. Chia sẻ với ông, bởi chúng ta cũng đang dấn thân vào cuộc chiến đấu cam go vì khát vọng dân chủ và tự do, vì quyền con người trên đất nước đau thương của chúng ta. Vì khát vọng ấy mà những con người quả cảm và kiên cường đang dấn thân, bất chấp gian khổ, hiểm nguy, tỉnh táo đối diện với đàn áp và khủng bố của bạo quyền.
Tên tuổi của những Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm) và biết bao người khác nữa đang quằn quại trong tù với những bản án phi lý, tàn nhẫn và bất công làm tim ta đau nhói. Đó là các bản án đã “đi ngược lại với Tuyên ngôn Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, việc kết tội này cũng đặt ra những câu hỏi nghiêm trọng đối với cam kết của Việt Nam về nền pháp trị và cải cách” như thông cáo của đại diện Hoa Kỳ đã thẳng thắn chỉ ra. Còn Bộ Ngoại giao Anh thì bày tỏ quan ngại: “Không thể cầm tù bất kỳ ai vì người đó bày tỏ quan điểm của mình một cách hòa bình”. Chẳng những thế, “những người này đáng ra không bao giờ nên bị bắt chứ đừng nói là bị buộc tội và nhận án tù, phiên tòa rõ ràng là sự nhạo báng công lý” như thông cáo của Tổ chức Ân xá Quốc tế chỉ ra.
Cho dù vậy, những người đang phải gánh chịu những bản án phi luân vẫn vững tin vào sự nghiệp chính nghĩa mà họ đang dấn thân. Tù đày, kìm kẹp và những đối xử vô nhân tính trong nhà tù không khuất phục được họ. Trên Facebook ngày 14.7 lúc 9g50, tôi bắt gặp mấy dòng sau đây của Trần Huỳnh Duy Thức: “Vĩnh biệt ông Lưu Hiểu Ba, ở cuộc đời ông, qua kho tàng hàng trăm bài viết ông để lại, tôi tìm thấy những điều thật quen thuộc. Cuối cùng không ai còn có thể cầm giữ ông, cả thể xác lẫn tư tưởng. Rồi đây xã hội Trung Quốc sẽ phải có cái nhìn chính xác hơn về ông”.
Nếu vào những phút bi thương Lưu Hiểu Ba vẫn thắm thiết tình cảm dành cho vợ:
Dùng máu của chính mình
Viết ra một từ bí ẩn
Giúp cho anh đinh ninh
Mỗi chữ đều là con chữ sau rốt…
Trong tia mắt của đao phủ
Phẫn nộ biến thành khối đá
Hai thanh đường sắt đột ngột chập lại lớp lớp triền miên
Thiêu thân bay bổ vào ánh đèn
Để tư thế vĩnh hằng
Kề cận cùng bóng em.
thì trong thân phận người tù của một chế độ mà do chính cha mẹ của anh xây đắp lên từ buổi ban đầu, rồi bị phản bội bởi những người cầm quyền hư hỏng, thoái hóa biến chất cam tâm chịu phận chư hầu từ mật ước Thành Đô để được bảo kê cái ghế quyền lực, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh đã da diết nói với mẹ:
Mười năm trước đưa Cha
Nước mưa hòa nước mắt
Nay tiễn Mẹ đi xa
Trời nhòa người lệ ứa
Mưa ơi lất phất thôi
Đỡ ướt người tiễn biệt
Gió Đông xin nhẹ thổi
Mẹ giá buốt lắm rồi.
Người thân vơi bi lụy
Nhẹ lòng người ra đi
Cha mải chờ Chín Suối
Sắp vui đón Mẹ rồi.
Chắc các cụ thân sinh của Ba Sàm cũng được ngậm cười nơi chín suối vì biết con trai út của mình đang dấn thân cho một sự nghiệp cao cả mà sinh thời các cụ đã cống hiến hết mình vì lý tưởng giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho tổ quôc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Chính vì lý tưởng cao đẹp đó mà “Mẹ Nấm”, người mẹ trẻ của hai con nhỏ đã dũng cảm đấu tranh chống lại sự phản bội của chế độ toàn trị phản dân chủ đang chà đạp lên tự do, dân chủ và quyền con người đã thắm thiết và dõng dạc nói với mẹ của mình: “Mỗi người chỉ có một cuộc đời nhưng dù được làm lại con vẫn sẽ làm như vậy và con tin mẹ và các con sẽ không bao giờ phải hối hận, mà sẽ tự hào vì con”. Và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh nói với mọi người: “Tôi mong rằng mọi người sẽ lên tiếng và đấu tranh, vượt qua nỗi sợ hãi của chính bản thân mình để xây dựng một đất nước tươi đẹp hơn”.
Thưa các bạn,
Chúng ta tìm trong những dòng tâm huyết ấy ngọn lửa bất diệt của những người dấn thân vì dân chủ và tự do cho quê hương đất nước mình, ở Trung Quốc, ở Việt Nam và ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này dân chủ, tự do và quyền con người đang bị chà đạp. Chúng ta gửi đến những người con dũng cảm quật cường của dân tộc chúng ta đang bị giày vò cả thể xác lẫn tinh thần trong nhà tù nghiệt ngã lời biết ơn vì họ đang ở tù thay cho chúng ta. Gửi đến họ niềm kính phục sâu sắc và cố gắng cùng tiếp sức cho họ trong những thử thách cam go mà họ đang phải đương đầu.
Trên ý nghĩa đó, chúng ta nghiêng mình kính cẩn tưởng niệm Lưu Hiểu Ba, giải Nobel Hòa bình, người chiến sĩ đấu tranh cho nhân quyền hàng đầu của dân tộc Trung Hoa vĩ đại vốn có một nền văn hóa lâu đời đã từng cống hiến cho nhân loại những tác phẩm lớn, những tài năng văn hóa lớn và nay đang sản sinh ra những người như Lưu Hiểu Ba và nhiều trí thức khác đang góp phần xứng đáng cho văn minh, cho hòa bình, dân chủ và quyền con người.
Lưu Hiểu Ba sống mãi trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, tự do và quyền con người ấy. Xin dành một phút mặc niệm.
Sài Gòn ngày 16.7.2017
GS Tương Lai – Bauxite Việt Nam
Leave a Comment