Để có một thứ gì đó ưng ý, người ta có thể bằng cách này hay cách khác bao biện rằng sự có mặt của nó là hợp lý, là cần thiết. Và khi không cần một thứ gì đó nữa, muốn tống khứ nó đi cho rảnh chuyện, người ta lại thiết lập cả một hệ thống suy nghĩ để bao biện cho sự tống khứ của mình là hợp lý, cần thiết. Với tính mạng của một con người cũng vậy, nhất là trong thời đại Cộng sản xã hội chủ nghĩa này, mạng người đôi khi rẻ hơn lá mít mà cũng có lúc đánh đổi cả giang sơn.
Nói nghe có vẻ buồn cười và không thật nhưng đó là sự thật, và cái sự thật cay đắng, đau lòng này đã kéo dài khá lâu trên đất nước này, nó như một minh chứng về thân phận của một quốc gia, một dân tộc nhược tiểu và đầy ma mãnh, trí trá. Đáng sợ hơn là sự ma mãnh, trí trá này được hợp thức hóa bằng con đường chính thống và nó đẩy dạt mọi giá trị đạo đức sang hai bên lề trên đường đi của nó.
Thử đặt câu hỏi: Nếu như anh Hoàng Trung Thông và Hoàng Văn Hải (hai nạn nhân bị Abu Sayyaf chặt đầu tại Phillipines) là con của một quan lớn nào đó trong hệ thống trung ương đảng Cộng sản thì họ có ra nông nổi như đã thấy?
Vì sao tôi phải đặt câu hỏi này? Bởi vì hiện tại, có hàng triệu người trẻ Việt Nam đã trả giá cho việc học hành, theo đuổi tấm bằng đại học, rồi bằng thác sĩ, tiến sĩ, việc theo đuổi này bị đánh đổi bằng việc cha mẹ của họ phải bán đất đai, bán nhà cửa, cầm cố, vay nợ… Để rồi khi tốt nghiệp, họ lại tiếp tục cầm tấm bằng chạy vạy khắp nơi xin việc, đi bưng cà phê, đi bán bảo hiểm, đi phụ hồ… Trong khi đó, con cái của giới quan chức học hành chẳng ra gì, một ngàn đứa thì có một đứa học hành tử tế, con số 999 đứa còn lại không cần học hành gì, thậm chí ăn chơi sa đọa mà vẫn có được chỗ làm vững chãi, làm sếp, làm lãnh đạo người khác.
Những đứa con nhà quan tuy học hành chả ra trò trống gì nhưng chúng có cha mẹ của chúng làm cái dù che chở cho chúng, và để có được sự no lưng ấm cật cho con cái, giới quan chức đã không nghần ngại đạp đổ mọi qui tắc đạo đức, mọi qui định của pháp luật để lấy cho được cái ghế quyền lực và bổng lộc cho con của họ. Ngược lại, một cử nhân hay một thạc sĩ học hành tử tế nhưng không có cái dù thì cho dù có cầm tấm bằng đi gõ cửa khắp mọi nơi cũng sẽ nhận được cái lắc đầu lạnh lùng. Và đương nhiên cái lắc đầu này nhân danh mọi qui định hiện hành và nhân danh mọi giá trị đạo đức.
Trở lại chuyện các thủy thủ Việt Nam bị bắt cóc, tống tiền, giả sử như Hoàng Trung Thông và Hoàng Văn Hải là con nhà quan chức Cộng sản thì chắc chắn là họ không bị giết, họ đã được cứu ngay từ đầu, người ta sẽ vận dụng mọi cách có được để cứu họ, không ngoại trừ dùng cả nguyên tắc Tối Huệ Quốc để cứu lấy mạng sống của con cháu họ. Và lúc đó, một kịch bản yêu thương nòi giống Việt Nam, một tiểu thuyết về khả năng tồn tại trước cái chết của cô chiêu, cậu ấm được trình làng để biến họ thành những ngôi sao của sự sống bất diệt… Điều đó vừa có lợi cho quá trình chuộc con tin lại vừa có lợi cho cái điều gọi là “mầm mống của đảng, thành phần ưu tú của xã hội”.
Nói như vậy để thấy rằng khi muốn có một thứ gì đó, người ta sẽ bằng mọi giá để bao biện rằng sự tồn tại của nó là ý nghĩa, là giá trị và không được phép mất nó. Ngược lại, khi thấy không cần thiết, người ta cũng tìm cách bao biện cho sự đập bỏ của mình bằng một hệ thống lý lẽ nghe ra cũng không đến nỗi chói tai.
Trường hợp mà ông Lê Hưng Quốc, chuyên gia đối ngoại của nhà nước Cộng sản Việt Nam trả lời trên RFA về cái chết của hai công dân Việt Nam Hoàng Trung Thông và Hoàng Văn Hải: “… Nhưng làm như thế nào thì phải theo thông lệ quốc tế. Ví dụ như tự mình đi gặp riêng bọn bắt cóc để đưa tiền chuộc là không được. Quốc tế không cấm nhưng người ta kêu gọi chính phủ là không nên. Bởi vì sao? Nó tạo ra 1 tiền lệ hôm nay mình bồi thường trường hợp khác thì sẽ bắt trường hợp khác, cuối cùng cả thế giới này nằm trong khủng hoảng, khủng bố. Không được. Cái này cũng là 1 thông lệ mà các quốc gia đã thoả thuận với nhau, là tất cả phải báo cáo Liên hợp quốc, báo cáo với các nước có trách nhiệm và các nước sở tại để cùng nhau xử lý những trường hợp này chứ anh không được đơn phương xử lý.
Mọi trường hợp bắt cóc đều có các lý do của nó. Và mỗi vụ này với vụ khác hoàn toàn khác nhau. Không thể lấy vụ năm ngoái để suy diễn cho vụ năm nay, cách đây 10 năm cũng tương tự như thế này nên bây giờ cũng như thế. Không bao giờ.
Chỉ có cái là ngày xưa chính phủ cứ đơn phương “đi đêm” với bọn bắt cóc, rồi trả tiền chuộc. Hiện nay có rất nhiều vụ báo cứ đăng ầm lên là trả bao nhiêu triệu đô ấy, là rất nguy hiểm vì khuyến khích bọn bắt cóc.
Những chuyện như vậy Liên hiệp quốc phải khuyến cáo, không nên bồi thường như thế vì sẽ lan rộng chuyện bắt cóc là không được”.
Nói như vậy thì cuối cũng nghe ra cũng rất chi là hợp lý, hợp tai và chẳng ai có thể trách ai được trong chuyện này, mọi chuyện đều đổ lên “thông lệ quốc tế”, mượn thông lệ quốc tế vốn dĩ là bài thuộc lòng của giới chuyên gia nhà nước mặc dù cái họ mượn chỉ có hại cho dân và có lợi cho sự vô trách nhiệm của họ.
Thử nghĩ, nếu họ thực sự coi trọng thông lệ quốc tế hay các qui định quốc tế thì tại sao họ phải ém nhẹm thông tin về vụ các nạn nhân bị bắt cóc và sau đó là cấm đoán thông tin về cái chết của các nạn nhân? Và nếu thực sự coi trọng các qui định quốc tế thì tại sao các phiên tòa xử các nhà hoạt động đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam lại khuất tất và man trá như đã thấy? Không phải là một vụ mà đã có quá nhiều vụ!
Điều nhà làm tôi liên tưởng đến một thứ rất dân dã của nhà nông, đó là cái cuốc. Với người nông dân, cái cuốc là phương tiện, là sinh kế để đào ra hột gạo mà sống, nhưng với người Cộng sản, nó không phải là sinh kế, không phải là phương tiện đào ra hột gạo tồn tại, mà là thứ vũ khí để đập vào sọ đối phương. Đã có rất nhiều cái chết trong chiến tranh chứng minh cho điều này, xét nghĩ không cần bàn thêm. Điều ước hay qui định quốc tế cũng vậy thôi, với người này, nó là phương tiện để nâng cao tính nhân đạo, với kẻ khác, nó là phương tiện để bao biện, thậm chí để trí trá, bao che cho sự vô cảm, lạnh lùng, cái ác!
Leave a Comment