Có thể còn nhiều Sắc lệnh nữa, nhưng chỉ cần biết đến “Sắc Lệnh số 158 –SL ngày 17 tháng 5 năm 1950”, cũng đủ để nhận ra, chính quyền cách mạng năm 1945 do nhiều lực lượng yêu nước tiến hành, dưới tay “Cha già dân tộc” chuyển hóa mạnh mẽ và dứt khoát thành thành chính quyền thổ phí bắt đầu từ năm 1950. Nội dung của Sắc Lệnh này quy định rất rõ ràng, đó là đề bạt bổ nhiệm những “cán bộ công nông”, thực chất là bần cố nông, những người đọc chưa thông viết chưa thạo, chuyên nghề bám đít trâu đen, chỉ có mơ ước duy nhất là lo cho đầy cái bụng, trở thành Thẩm phán, người cầm cân nảy mực cho công lý của chế độ:
Điều 2: Các thẩm phán toà án nhân dân huyện nếu có năng lực và tinh thần phục vụ có thể được thăng bổ lên ngạch thẩm phán toà án nhân dân tỉnh, theo đề nghị của Hội đồng tuyển trách”.
Sau sắc lệnh này liền diễn ra phong trào Chỉnh huấn năm 1951. Đây là cú dằn mặt đầu tiên những cán bộ trong bộ máy xuất thân từ thành phần trí thức tiểu tư sản, khởi dậy tinh thần căm thù giai cấp bóc lột, đấu tranh giữa hai con đường với thành phần trí thức tiểu tư sản, đề cao vai trò nòng cốt của những người vô học, lưu manh, bợm bãi, được Mác Lenin gọi là giai cấp công nông.
Trong hai năm học tập, chính quyền của ông Hồ Chỉ Minh đã đặt được lưỡi hái thần chết vào tay giai cấp công nông này.
Có đủ mọi kiểu giết người tàn bạo không ghê tay gớm máu, vì nhân danh cách mạng, nhân danh công lý là những thẩm phán miệng răng đen, tay cầm mã tấu: “Mấy cụ kể : Bọn tôi ớn nhất loại thẩm phán “răng đen” này, nó mà rút cái dấu củ khoai trong tay nải ra là một mạng người đi đứt – Theo Ngô Nhật Đăng”. Thổ phỉ đến như thế, nhưng ông Hồ Chí Minh vẫn vừa lau nước mắt vừa hoan hỉ nói trong đại hội đảng năm 1960: “Đây là cuộc cạch mạng chí nhân, chí tình, chí nghĩa”. Trời đất ơi, tôi nghe câu ông nói mà rờn rợn như có bó nứa sắc bình thản vuốt từ sống lưng lên đỉnh đầu tôi.
Ông Hồ Chỉ Minh cố ý giết nhiều người cốt làm cho dân chúng sợ hải và mục đích là để cho ông và chính quyền của ông dễ bề cai trị dân chúng về sau.
Sau cải cách, chính quyền thổ phỉ của ông Hồ Chí Minh đã quá lộ mặt. Nhưng không vì đã lộ mà chính quyền thổ phỉ của ông cần sám hối, dừng lại mà con đường thổ phỉ của chính quyền tiếp tục tiến lên bằng cách:
– Xóa bỏ Bộ Tư Pháp và nhất quyết không cho mở trường luật. Tiến sĩ, giáo sư Luật nổi tiếng như ông Nguyễn Mạnh Tưởng cũng tự phải biến mình thành thứ rẻ rách đồ chơi trong chính quyền thổ phỉ này. Giáo sư triết học Trần Đức Thảo thì biến thành con gà què, quẩn quanh trong chuồng của chính quyền, đến cục tác một tiếng cũng không dám. Thân bại, danh liệt ngơ ngẩn cả một đời.
– Cướp đất của dân, dồn dân vào chuồng trại có tên là nhà nước Hợp tác xã để dễ bề cướp của và bắt người phục vụ cho kế lược của quan thày là Trung Cộng và Liên Xô trường kỳ đánh nhau với Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong 20 năm với một quyết tâm, “năm năm, mười năm hoặc 20 năm nữa, chúng ta cũng đánh và đánh cho đất nước đến “không còn gì quý hơn”… cũng đánh.
Theo nền tảng chính quyền thổ phỉ do ông Hồ Chí Minh tạo dựng lên từ buổi ban đầu, đến nay, Việt Nam sửa chữa bằng cách soạn ra cả một rừng luật. Nhưng đám quan nha, con ông cháu cụ, có bản tính, “ăn không từ một thứ gì của dân” lại là kẻ “cần cân nảy mực” công lý chỉ xử theo luật rừng, luật ngày xưa của ông Cụ.
Trong tiểu thuyết bi hài Cò hồn Xã nghĩa của nhà văn Phạm Thành có đoạn:
“Cũng là vì bọn vua quan, tướng lĩnh, cha truyền con nối, lục lâm, thảo khấu có tới một ngàn năm cầm quyền mà đất nước thời nào cũng vô luật.
Vô luật, thực ra cũng là một thứ luật. Đó là thứ luật của quyền lực. Quyền lực là luật. Luật là quyền lực. Chính thể nào cũng chỉ có một thứ luật như vậy.
Mục đích là để chúng sử dụng quyền lực được tự do. Quyền lực được dễ dàng lên nhanh, xuống nhanh như cái công cụ tình dục của giống đực; được dễ dàng rộng hẹp, nông sâu như cái công cụ tình dục của giống cái; được dễ dàng bắt người, giết người, đày dọa hãm hại người như trò chơi tung hứng hay trò cá cược đỏ đen xóc đĩa”.
Mời đọc thêm (theo fb Ngô Nhật Đăng):
“SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 158-SL NGÀY 17 THÁNG 11 NĂM 1950
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chiểu Sắc lệnh số 13-SL ngày 24 tháng 1 năm 1946 và các sắc lệnh tiếp theo tổ chức các toà án và ngạch thẩm phán;
Chiểu Sắc lệnh số 76-SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 ban hành quy chế công chức Việt Nam;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ;
Theo quyết nghị của Hội đồng Chính phủ, sau khi Ban thường trực Quốc hội thoả thuận;
RA SẮC LỆNH:
Điều 1: Những cán bộ công nông có thành tích kinh nghiệm có thể được bổ vào một ngạch thẩm phán thích đáng theo đề nghị của một Hội đồng tuyển trách.
Điều 2: Các thẩm phán toà án nhân dân huyện nếu có năng lực và tinh thần phục vụ có thể được thăng bổ lên ngạch thẩm phán toà án nhân dân tỉnh, theo đề nghị của Hội đồng tuyển trách.
Điều 3: Hội đồng tuyển trách nói ở điều 1 gồm có:
– Bộ trưởng Bộ Tư pháp hay người đại diện: Chủ tịch.
– Một đại biểu Bộ Nội vụ Hội viên.
– Một thẩm phán do Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ đinh Hội viên.
– Hai đại biểu do các đoàn thể công nông đề cử Hội viên.
Điều 4: Một nghị định Bộ Tư pháp sẽ ấn định chi tiết thi hành sắc lệnh này.
Điều 5: Những điều khoản trái với sắc lệnh này đều bãi bỏ.
Điều 6: Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ chiểu sắc lệnh thi hành.
Hồ Chí Minh đã ký.”.
Nguồn: Bà Đầm Xoè
Leave a Comment