Câu hỏi này, thậm chí mang ý nghĩa đối với một phần sự sống còn của dân tộc Việt Nam, đã tồn tại từ rất lâu và giờ đây lại một lần nữa đặc biệt xáo động trong tâm thức nhiều người đang lo lắng việc Bắc Kinh sẽ đổ tiền để cứu vãn chế độ Hà Nội – như một cách nhằm bảo vệ ý thức hệ độc đảng chuyên quyền và phản dân chủ.
Ngửa bài đe dọa
Quá nhiều người Việt vừa không thích Trung Quốc, vừa lo sợ lịch sử về nguy cơ Trung Quốc sẽ biến Việt Nam thành một thứ tỉnh lỵ thuộc Bắc Kinh vào một thời điểm nào đó, nhất là sau khi Hội nghị Thành Đô đặt mọi chuyện vào sự đã rồi và luôn là một cái cớ để Bắc Kinh tấn công Việt Nam bất kỳ lúc nào thuận lợi.
Năm 2016, một trung tâm nghiên cứu có uy tín của Hoa Kỳ là Pew đã chứng thực và lượng hóa tâm lý “thoát Trung” ấy. Khi Pew đặt câu hỏi đối với 1.000 dân Việt được hỏi nước nào là mối đe dọa lớn nhất, có tới 74% chọn Trung Quốc. Và khi Pew đề cập quốc gia nào có thiện cảm nhất, chỉ có 16% dân Việt chọn Trung Quốc.
Nhưng ở Việt Nam đương đại, chủ nghĩa “thân Trung” vẫn tồn tại từ thời Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống. Chỉ có một điểm khác biệt cơ bản: nếu ít năm trước loại chủ nghĩa này còn cố gắng che giấu ý đồ và hành vi của nó, thì nay một số nhân vật người Việt đại diện cho khuynh hướng và tổ chức “thân Trung” ở Hà Nội thậm chí còn công khai tuyên truyền cho khả năng “không có chuyện chế độ (Việt Nam) sụp đổ vì Trung Quốc sẽ đổ tiền để cứu”.
Hầu như không khác với giới tuyên huấn Bắc Kinh mà từ lâu vẫn hô hào về một “Trung Quốc đang trỗi dậy” để người dân nước này không nên ngả theo phương Tây và cũng chẳng cần phải đấu tranh giành các quyền con người, các nhân vật “thân Trung” ở Hà Nội muốn lật ngửa bài để đe dọa những quan chức manh nha theo đường lối đồng minh quân sự với Mỹ và Nhật, cùng lúc khống chế phong trào dân chủ nhân quyền và tinh thần kháng Trung ở Việt Nam.
Không biết vô tình hay hữu ý, hành động “thân Trung” trên càng gia tốc và nguy hiểm hơn sau chuyến làm việc của ông Nguyễn Phú Trọng tại Trung Quốc vào tháng Giêng năm 2017, kéo theo 15 hiệp định song phương và ngay lập tức vốn đầu tư của Trung Quốc vọt lên hàng thứ hai trong các kênh đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Vì sao phải ‘cứu Việt Nam’?
2017 – năm bị xem là “cực kỳ khó khăn” đối với nền kinh tế Việt Nam mà thậm chí một quan chức cao cấp là Nguyễn Xuân Phúc đã phải cảnh báo về “sụp đổ tài khóa quốc gia”.
Hẳn là thế và hình như không còn lối thoát nào khác nếu chiếu theo luận thuyết “kinh tế quyết định chính trị” của Mác mà Việt Nam vẫn hàng ngày truyền tụng trong các cơ sở đào tạo “lý luận chính trị cao cấp”.
Sau triều đại bị xem là “phá chưa từng có” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sự thật về một nền kinh tế suy sụp và cận kề khủng hoảng đã không còn lời nào để bào chữa. Nếu trước đây Thủ tướng Dũng, dàn tham mưu bộ ngành của ông ta, và kể cả dàn đồng ca phụ họa của những người bên đảng còn tự an ủi rằng những “khó khăn kinh tế” như nợ xấu, nợ công, ngân sách không phải là chuyện lớn và “vẫn còn dư địa để vay tiếp và phát triển”, làm thế nào có thể lý giải được một sự thật trần trụi là ít nhất 25 tỷ USD nợ xấu trong hệ thống ngân hàng vẫn hoàn toàn bế tắc trong xử lý trong khi nợ công quốc gia không phải chỉ gần 65% GDP như đủ loại báo cáo “nâng lên một tầm cao mới” mà đã vọt lên đến 210% GDP – gấp hơn 3 lần ngưỡng nguy hiểm?
Kinh nghiệm của các quốc gia từng suýt vỡ nợ nhưng cuối cùng không vỡ là cho dù nợ công cao nhưng ngân sách và dự trữ ngoại hối vẫn còn đủ bù đắp. Cách đây vài năm, giới chuyên gia nhà nước vẫn thường lấy Nhật Bản như một bài học kinh nghiệm về tỷ lệ nợ công vượt hơn 200% GDP nhưng vẫn an toàn để cho rằng Việt Nam… cũng sẽ ổn. Nhưng lại theo kinh nghiệm của những quốc gia đã từng thực sự vỡ nợ như Argentina, nợ công kinh khủng mà ngân sách lại cạn kiệt là những tiêu chí chắc chắn dẫn đến một kịch bản vỡ nợ chắc chắn, có khi còn kéo theo sự sụp đổ của cả một chính phủ.
Việt Nam lại đang bước vào năm suy thoái kinh tế thứ 9 liên tiếp, trong lúc các kênh “ngoại viện” gần như đóng lại. Ngay cả Hiệp định TPP mà giới lãnh đạo Việt Nam từng trông đợi để được “tăng 25% GDP” cũng gần như tan vỡ. Trong khi đó, một hiệp định khác – Hiệp định tự do thương mại giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu – cũng chưa tới đâu, cho dù đã được ký kết từ cuối năm 2015. Nghe đâu Nghị viện châu Âu còn đang rất cân nhắc có nên thông qua việc triển khai hiệp định này hay không khi chính quyền Việt Nam vẫn thẳng tay đàn áp nhân quyền.
Thậm chí vào năm 2016, lượng kiều hối của “kiều bào ta” gửi về quê hương đã sụt đến 3 tỷ USD – giảm hơn 30% so với năm 2015, báo hiệu một thời kỳ “đen tối”…
Việt Nam đang hội tụ gần như đầy đủ các yếu tố đủ lớn cho một sự ra đi về “ổn định kinh tế tức ổn định chính trị”: từ năm 2015, ngân sách trung ương đã bị cảnh báo là “có thể trống rỗng”, để đến năm 2017, bên cạnh lời cảnh báo “cực kỳ khó khăn” là bắt đầu xuất hiện dự báo về khả năng nền ngân sách này “không trụ nổi đến hết năm 2018”.
Đó là nguyên do sâu xa để chế độ một đảng ở Trung Quốc, nếu không thật sự khó khăn tài chính, đã và sẽ phải đổ tiền để cứu chế độ độc đảng tại Việt Nam.
(Xem tiếp trang 2: Thực chất kinh tế Trung Quốc ra sao?)
Page: 1 2
Leave a Comment