Quảng Cáo

Bất cập trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước ở Việt Nam

Quảng Cáo
Nước trong đời sống con người

Nước là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến khí hậu, đồng thời là nguyên nhân tạo ra thời tiết. Hơn 75% bề mặt Trái Đất nằm dưới sự bao phủ của nước. Ước tính, khoảng 97,5% lượng nước trên trái đất là nước mặn, nằm trong các đại dương hay ngầm trong lòng đất; khoảng 2,5% còn lại là nước ngọt, nhưng gần 99% lượng nước này lại là đỉnh núi băng, sông băng và nước ngầm; chỉ có 0,007% nước trên toàn thế giới là nước sông và hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu cho con người sử dụng.

Trong bối cảnh tình trạng ô nhiễm ngày càng tăng và dân số ngày một đông, nước sạch sẽ sớm trở thành một thứ tài nguyên quý giá. Theo dự báo, việc cung cấp nước sạch sẽ là một trong những thách thức lớn nhất mà nhân loại phải đối mặt trong những thập niên tới đây.

Lược sử quản lý nhà nước về tài nguyên nước ở Việt Nam

Ban đầu, nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước (thủy lợi), cùng với giao thông và bưu điện, thuộc chức năng của Bộ Giao thông – Công chính, một trong 14 bộ được thành lập theo Tuyên cáo ngày 28/8/1945 của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá I (tháng 9/1955) đã thông qua đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định tách Bộ Giao thông Công chính thành 2 bộ: Bộ Giao thông – Bưu điện và Bộ Thủy lợi – Kiến trúc. Tháng 4/1958, tại kỳ họp thứ 8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá I ra nghị quyết tách Bộ Thủy lợi – Kiến trúc thành Bộ Thủy lợi và Bộ Kiến trúc.

Bèo tây chết thành vạt trước cửa cống Bá Thủy

Đến tháng 10/1995, Bộ Thủy lợi được sáp nhập cùng Bộ Nông nghiệp và Bộ Lâm nghiệp thành Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chấm dứt 37 năm tồn tại như một bộ chuyên ngành kinh tế kỹ thuật độc lập.

Lý giải cho việc sáp nhập này, người ta cho rằng thủy lợi chỉ là một giải pháp kỹ thuật trong nông nghiệp (cấp nước tưới tiêu cho cây trồng). Tuy nhiên, nước không chỉ là mạch máu của nông nghiệp, mà còn là mạch máu của cả nền kinh tế quốc dân. Do đó, đến năm 2002, chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước (thủy lợi) được chuyển giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, một bộ mới ra đời theo Nghị quyết số 02/2002/QH11 ngày 5/8/2002 của Quốc hội khóa XI.

Những bất cập trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước

Chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước (hay thủy lợi) đã được chuyển giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, còn Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chỉ quản lý nhà nước về chuyên ngành thủy nông, tức là phân ngành thủy lợi phục vụ cho nông nghiệp.

Tuy nhiên, trên thực tế, cùng với sự ra đời của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ngành khoa học kỹ thuật tài nguyên nước lại nằm ở cả hai bộ là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường. Điều này đã gây ra nhiều hệ lụy trong công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Tiến sĩ Trần Nhơn, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi, đã đưa ra hình ảnh về tình trạng chia cắt của ngành khoa học kỹ thuật tài nguyên nước như sau: Toàn thân ngành bị cắt mất cái đầu (gần như là rỗng) ném sang Bộ Tài nguyên và Môi trường từ năm 2002, còn mình mẩy tay chân và cái đầu thực chất, cái đầu trí tuệ thì mười mấy năm nay vẫn nằm ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và đang bị trì trệ, không phát triển được.

Theo Tiến sĩ Trần Nhơn, hiện nay cơ quan quản lý tổng hợp về tài nguyên nước là Bộ Tài nguyên và Môi trường đang thiếu nghiêm trọng hệ thống các cơ quan và lực lượng hỗ trợ kỹ thuật đồng bộ để điều hành công việc, thực thi nhiệm vụ. Trong khi đó, cơ quan quản lý chuyên ngành nước cho nông nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn – lại ôm giữ quá nhiều nguồn lực. Bộ này đã thừa hưởng lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật thủy lợi rất hùng hậu, được đào tạo, rèn luyện và trưởng thành suốt nửa thế kỷ của Bộ Thủy lợi cũ đã sáp nhập vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn từ năm 1995. Đây là hậu quả của việc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn dưới thời Bộ trưởng Lê Huy Ngọ đã không thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 02/2002/QH11 ngày 5/8/2002 của Quốc hội khóa XI.

Điều 2 của Nghị quyết 02/2002/QH11 nêu rõ: “Những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số bộ, cơ quan ngang bộ đã được quy định tại các luật, pháp lệnh hiện hành, nhưng nay do có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức theo Nghị quyết này, thì được chuyển giao cho các bộ, cơ quan ngang bộ tương ứng kể từ ngày các cơ quan này được sắp xếp lại.” Tuy nhiên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn lại chỉ bàn giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường một nhúm cán bộ. Toàn bộ các cơ quan hỗ trợ khoa học kỹ thuật cùng với lực lượng cán bộ quản lý dày dạn kinh nghiệm và đội ngũ chuyên gia khoa học kỹ thuật hùng hậu (Trường Đại học Thủy lợi, các Viện Quy hoach, Nghiên cứu Khoa học Thủy lợi, các Công ty Tư vấn Xây dựng thủy lợi…) vẫn nằm nguyên ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước, quản lý lưu vực sông trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, quản lý nhà nước về sử dụng nước cho các ngành lại do các bộ khác chịu trách nhiệm: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý nhà nước đối với việc cấp nước cho nông nghiệp và nước sinh hoạt nông thôn; Bộ Công Thương quản lý nhà nước về việc cấp nước cho công nghiệp, thủy điện; Bộ Xây dựng quản lý nhà nước về cấp nước cho đô thị và các khu công nghiệp. Thực trạng nói trên đã khiến cho công tác quản lý nhà nước về nước bị phân tán, chia cắt và xuống cấp nghiêm trọng.

Do thiếu các chuyên gia đầu ngành cũng như lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật thủy lợi nên đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn chưa xây dựng được một quy hoạch tổng hợp lưu vực sông nào. Điều này khiến ngưỡng giới hạn khai thác nước đối với các dòng sông chưa được xác định và công bố, khiến những năm qua các công trình, đặc biệt là thủy điện, cứ đua nhau mọc lên trên các lưu vực sông.

Ngoài ra, vì thiếu quy hoạch tổng hợp lưu vực sông cũng như một “nhạc trưởng” đứng ra cầm trịch nên tất cả các hồ chứa được xây dựng chỉ dựa trên các quy hoạch thuần túy chuyên ngành thủy nông hoặc thủy điện. Hầu hết các hồ chứa chỉ phục vụ cho lợi ích của ngành hay địa phương mình. Các lợi ích liên quan đến tài nguyên nước không được giải quyết hài hòa, như giữa chống lũ với phát điện; giữa phát điện với cấp nước tưới; giữa phát điện với cấp nước cho hạ du, nước sinh hoạt, nước để đẩy mặn cửa sông, v.v.

Hậu quả của tình trạng trên là người dân sống quanh lưu vực sông, đặc biệt là ở Miền Trung, luôn rơi vào tình cảnh mùa khô thì nguồn nước cạn kiệt, mùa lũ lại bị xả lũ ào ào lên đầu.

Việc thu về một đầu mối cơ quan quản lý nhà nước về nước, do vậy, đang ngày càng trở nên cấp thiết. Càng kéo dài tình trạng hiện nay, hậu quả càng lớn và càng khó khắc phục, an ninh nguồn nước càng bị đe dọa nghiêm trọng.

Quảng Cáo
Bài Liên Hệ
Leave a Comment
Quảng Cáo
WordPress Appliance - Powered by TurnKey Linux