Ít lâu nay dư-luận trong và ngoài nước lao-xao nói nhiều đến hai bài viết. Một là bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh” của cô giáo Trần Thị Lam và hai là đoản-văn “Người Việt-Nam hèn hạ” của cô Phan Hân. Cả hai cùng còn trẻ, thuộc thế-hệ được sinh ra và trưởng-thành dưới bầu trời quê-hương đỏ gắt một mầu máu đang tiến nhanh tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ-nghĩa xã-hội. Một người thì quay-quắt trước tiền-đồ nước non và một người thật phẫn-nộ khi nhìn thấu đến tận căn-để của thực-tại xã-hội thoát-thai từ chế-độ cộng-sản.
Điều đặc-biệt là hai cô công-dân thuần-tuý của nước Cộng-hoà Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-Nam lại có những lời thơ và câu văn viết mang nặng những trăn-trở của một người Việt-Nam chân-thành với chính mình trong tình yêu quê-hương mình. Một người là cô giáo đang làm việc đào-tạo tâm-hồn lớp trẻ và một người là luật-sư nói theo công-tâm và pháp-lý đã giúp cho chúng ta phải suy nghĩ lại
Sau khi đọc đi đọc lại cả hai bài, người viết ghi vào đầu ngay hai ý-tưởng đậm nét là câu thơ cô giáo Lam viết Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn và cái phán-quyết cô luật-sư Hân có ngay từ lời mở đầu bài viết này sẽ không có một chữ việt nam nào được viết hoa. Bởi chúng ta có xứng đáng được trân trọng như vậy không? Không hề.
Tôi nghĩ, chữ “dân” cô giáo Trần Thị Lam dùng cũng như chữ “chúng ta” cô Phan Hân nói sẽ không chừa một ai được gọi là người Việt-Nam. Cả trong nước lẫn hải-ngoại.
Thật ra, ý tưởng mà hai cô muốn chia sẻ hay gửi-gắm đến mọi người cũng không phải là mới mẻ hay sáng-tạo. Bao lâu nay cũng biết bao người đã nghĩ thế, đã biết thế, song cái độc-đáo của hai tác-giả này chính là sự thẳng-thắn, sự trung-thực và sự can-đảm phát-xuất từ tấm lòng bị ray-rứt vì chuyện đất nước, chuyện dân-tộc mà nói lên sự thật không hề biết sợ. Cái nỗi sợ vẫn đang ám-ảnh tuyệt-đại đa-số chúng ta về đủ điều theo cái khôn mà ông bà xưa đặt tên cho nó là kiểu “khôn lỏi” hay “khôn vặt”. Đại-khái như sợ đụng chạm, sợ bị chụp mũ này mũ nọ, bị quy chụp các tội danh và sợ nhất là bản-thân bị thiệt-thòi nhiều thứ.
Bốn ngàn tuổi mà không chịu lớn
Mỗi người trong chúng ta hôm nay tốt nhất hãy nhận đi cái sự thực này. Cái sự thực mà chín chục triệu dân cần bới tung lên như bươi một đống rác. Cái đống rác lịch-sử đó mai hậu sẽ được biết bằng chữ nghĩa đơn-giản là giai-đoạn Việt-Nam dưới sự thống-trị của tập-đoàn cộng-sản Hà-nội. Cái tội thiên-cổ của những người cộng-sản này là đang đưa dân đưa nước đi vào kiếp-nạn Bắc-thuộc lần thứ năm. Nếu cái giai-đoạn chưa từng thấy trong lịch-sử này của dân-tộc vẫn sinh-tồn với chung cuộc Việt-Nam lại thành Giao-chỉ quận thì không thể đổ lỗi gán tội cho ai ngoài cái tội chính vì người dân không chịu trưởng-thành, không có tự-ái để tự-cường về tinh-thần tự-chủ; không đủ dũng-lực để vượt qua tính vị-kỷ chỉ muốn an thân cho dù phải mang thân-phận vong-quốc. Không chịu lớn là thế, là chỉ thấy bản-thân và gia-đình mình cần được cho “bú mớm” đủ no, đủ ấm và ở yên trong nhà đóng chặt cửa lại, dù bên ngoài ai gây gió to mưa lớn cũng mặc ai.
Chẳng hạn, chỉ cần nghĩ đơn-giản vài ba điều:
Formosa là chuyện xẩy ra ở Hà-tĩnh mà không xẩy ra nơi mình đang sống.
Cá chết vì biển nhiễm độc thì không ăn cá biển nữa mà đổi sang ăn cá nuôi…
Tất cả là do nhà nước chủ-sự, mình chống nổi sao và chống làm gì…
Đó là cách suy nghĩ của những cái đầu không chịu lớn như cô giáo Lam thấy Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm. Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…Và rồi, ai cho bú mớm thì đấy phải là mẹ thôi.
Chúng ta có xứng đáng được trân trọng không
Khi nói về nguồn cội mình, người Việt-Nam nào cũng đưa đặc-điểm bốn ngàn năm văn-hiến ra để “bảo-kê” về nền tảng vu-vơ của mình song không mấy ai chịu lần ngược lại con đường người xưa đã làm những gì, đã hy-sinh quả-cảm ra sao để có được con số hơn bốn ngàn năm đó. Nhất là vào lúc này, cái lúc mà không chỉ biết ngồi hát ê-a những bản hùng-ca về uy-danh một thời quá-khứ nào đó mà phải ôn lại, phải cho thuộc những bài học ngậm-ngùi từ những trang sử xa-xôi đầy ê-chề và tủi-hổ là những thời-kỳ Bắc-thuộc chẳng hạn. Bởi vì, chính từ nơi đó mà tìm ra được yếu-tố nào đã đưa dân-tộc vượt qua được sự lệ-thuộc ngoại-bang và khôi-phục chủ-quyền. Nếu ôn lại từng thời-kỳ lệ-thuộc với nỗ-lực của tiền-nhân và so lại với bây giờ mới thấy cô Phan Hân nói đúng là chúng ta không hề xứng làm con cháu của tổ-tiên và cũng không hề đáng được trân trọng.
Nhìn lại các giai-đoạn Bắc-thuộc
Bắc-thuộc lần thứ hai kéo dài từ năm 43 đến 543 sau Công-nguyên. Suốt 500 năm dài-dặc sống dưới ách cai-trị tàn-bạo của phương Bắc từ cuối nhà Đông Hán đến Đông Ngô thời Tam-quốc và sang đến các thời nhà Lương rồi nhà Tấn. Người Việt khi đó tuy ít-ỏi song vì ôm chí phục hồi độc-lập, đánh đuổi ngoại-xâm mạnh nên đã không nản lòng, không buông xuôi như ngày nay. Sau cùng có Lý Bí khởi binh chống thái-thú Tiêu Tư rồi xưng đế và đặt quốc-hiệu là Vạn Xuân. Nuớc ta lấy lại quyền tự-chủ cho dân-tộc, chấm dứt thời-kỳ Bắc-thuộc lần thứ hai vào năm 544
Trong giai-đoạn bị ngoại-thuộc này, lịch-sử còn ghi đậm nét các cuộc khởi-nghĩa lớn như Mai Thúc Loan, tự xưng là Mai Hắc Đế năm 713 với hàng chục vạn quân hưởng-ứng. Rồi đến Phùng Hưng nổi dậy vào năm 791, chiếm lại được thành Giao-châu. Cuối cùng vào năm 905, Khúc Thừa Dụ đem quân tiến chiếm thành Đại-la, nắm được quyền tự chủ. Giai-đoạn hơn 300 năm Bắc-thuộc lần thứ ba chấm dứt.
Bắc-thuộc lần thứ tư bắt đầu từ năm 1407 cho đến năm 1427. Ngay khi quân Minh đánh bại nhà Hồ, chiếm nước ta thì đã liền có Phạm Chấn nổi dậy kháng Minh. Cũng trong năm này, có thêm một số phong-trào nghĩa-quân nổi lên ở Thái-nguyên, Phú-thọ, Thanh-hoá, Nghệ-an, Thanh-oai. Đến năm 1417, khi chính-sách cai-trị của nhà Minh bắt đầu bành-trướng thì sưu cao thuế nặng, bắt dân đóng góp nhiều hơn. Việc này đã làm người dân bất mãn, dẫn đến thái-độ đối-kháng quyết-liệt bằng hàng loạt các cuộc nổi dậy. Rồi vào năm 1418, Lê Lợi khởi binh ở Lam-sơn, Thanh-hoá rồi tiến ra Bắc. Kết-quả, tướng nhà Minh là Vưong Thông phải xin nghị-hoà, rút quân về nước. Nhờ vào sự lãnh-đạo của Lê Lợi, dân quân Việt-Nam giành lại được quyền tự-chủ, đất nước độc-lập. Lê Lợi lên ngôi vua lập ra nhà Hậu Lê, chấm dứt 20 năm đô-hộ của nhà Minh.
Nhắc lại bốn lần nước ta rơi vào vòng Bắc-thuộc không phải là để ngậm-ngùi hay vương mang mặc-cảm yếu kém song là vững thêm niềm tin vào nguyên-lý có thăng có trầm của lịch-sử được trải-nghiệm bằng tinh-thần dân-tộc trong sáng, bằng lòng yêu quê-hương vô-vị-lợi tư riêng là khí-giới thắng được ngoại-bang.
Điều cô giáo Trần Thị Lam ai-oán được tích-tụ vào ba chữ “không chịu lớn”. Không chịu lớn có nghĩa là “không muốn” chứ không phải “không được”. Đây mới chính là vấn-đề sinh-tử của dân-tộc, của đất nước ngày hôm nay. Mới là con đường tự chúng ta tiến gần đến nguy-cơ Bắc-thuộc lần thứ năm, đến thảm-hoạ diệt-vong. Tại sao? Tại vì chính-sách độc-tài toàn-trị của đảng cộng-sản hiện nay cho dù có tàn-bạo thì cũng đến như chính-sách cai-trị của các chế-độ phong-kiến xa-xưa của Tầu đã đem sang áp-đặt trên dân mình hàng bao nhiêu thế-kỷ. Tham-vọng xâm-lấn nước ta và giấc mộng đồng-hoá dân-tộc ta của người Tầu lúc nào chẳng có. Vậy nên điều quyết-định là ở cái khối chín chục triệu dân có dám đòi hỏi dân-quyền không? Có để cho ngoại-bang thực-hiện mộng xâm lấn hay không? Có đoàn-kết đủ để khi cần thì thành lực-lượng chống quân thù hay không?
Ngày xưa có Trần Ích Tắc, có Lê Chiêu Thống thì ngày nay cũng có nguyên Bộ chính trị của đảng cộng-sản Việt-Nam bán nước. Ngày xưa những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống khi lộ mặt mãi quốc cầu vinh là bị quê-hương ruồng bỏ, giống nòi khinh. Còn nay đám nghịch-tặc ngang nhiên cắt đất dâng biển cho Tầu thì dân vì cầu an vẫn không chống-đối đã đành, mà ngay những người thức-giả và khoa bảng giỏi-giang cũng cứ chạy theo xu-nịnh và xum-xoe hoan-hô thì lỗi ở đâu và do ai? Đấy là điều khác biệt giữa xưa và nay.
Cách đây một thế-kỷ, nhà cách-mạng Phan Chu Trinh đã hô-hào chủ-trương cách-mạng dân-chủ và phản-đối việc cầu ngoại-viện cũng là để người dân trưởng-thành biết rèn luyện một ý-thức tự-cường là vậy. Trong tiến-trình đấu-tranh giành độc-lập, cụ Phan Chu Trinh đặt nặng công việc khai-hoá cho người dân trước vì cụ quan-niệm một khi người dân đã ý-thức được các điều cần-thiết cho việc xây-dựng đất nước thì họ sẽ đứng lên đòi hỏi quyền dân-sinh, dân-chủ mà không ngoại-bang nào cản ngăn nổi. Còn nếu như người dân chưa trưởng-thành trong ý-thức dân-chủ thì như cụ đã chia sẻ với cụ Phan Bội Châu lúc đang bôn-ba hải-ngoại… Ngoài ra tôi lại cho rằng lúc này cả nước ngủ mê, tiếng ngáy như sấm mà bác đứng ngoài muôn dặm, kêu gào, hò hét, liệu được công hiệu bao nhiêu? Tất phải có người ở trong nước gõ trán, xách tai người ta mà đánh thức dậy thì hoạ chăng lòng người mới không đến nỗi chết hết…(Thư của cụ Phan Chu Trinh theo Hồi-ký của cụ Phan Bội Châu).
– Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi-dân ích-nước thì người nước mình tham sống sợ chết. Chịu kiếp sống nhục-nhã đoạ-đày.
– Trong khi họ biết tiết-kiệm tang-lễ, cư-xử hợp-nghĩa với người chết, thì ta lo làm ma-chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia-đình bán hết ruộng, hết trâu.
– Trong khi người ta dẫu sang, hay hèn, nam hay nữ, ai cũng lo học lấy một nghề thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.
– Trong khi họ giỏi tổ-chức công-việc, sắp-xếp giờ nghỉ, giờ làm hợp lý thì ta chỉ biết chơi-bời, rượu-chè cờ-bạc, bỏ-bê công-việc…
– Trong khi họ biết gắng-gỏi tự-lực tự-cường; tin ở bản-thân, thì ta chỉ mê-tín nơi-mồ mả, tướng số. Việc gì cũng cầu Trời khấn Phật.
– Trong khi họ làm việc quan cốt ích-nước lợi-dân, đúng là “đầy-tớ” của dân, được dân tín-nhiệm, thì ta lo xoay-xở chức quan để no-ấm gia-đình. Vênh-vang hoang-phí. Vơ-vét áp-bức dân-chúng…
Tóm gọn lại, những điều cụ Phan Chu Trinh nhận-định cách đây cả trăm năm
so với những gì hai cô Trần Thị Lam và Phan Hân ray-rứt về hiện-tại của đất nước đều cần-thiết cho chúng ta lúc này. Cần, không phải để chuyển đến nhau đọc cho vui mà cần nghĩ đến việc làm thực-tế. Nếu chỉ ngân-nga suông bài thơ của Lý Thường Kiệt thì chưa phải là lớp hậu-duệ mà Lý Thường Kiệt muốn có. Muốn chân-thành biểu-tỏ lòng cảm-phục đối với vị anh-hùng phá Tống này chính là thấm nhập vào lòng ý-chí tất-yếu của ông và của mọi người anh-hùng dân-tộc Việt-Nam đã từng mang hào-khí đấu-tranh cho độc-lập và tự-do của dân-tộc. Đất nước có trường-tồn hay không là nhờ vào khí-phách mà cho đến nay người đời còn truyền-tụng qua hai câu thơ
Nực cười châu-chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.
Phạm Minh Tâm
Leave a Comment