Lâu nay, nói đến chuyện hoà giải, chúng ta chỉ hay giới hạn trong quan hệ giữa người Việt với nhau, chủ yếu là giữa người Việt ở miền Nam và người Việt ở miền Bắc, sau đó, giữa chính quyền Việt Nam và cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Trên thực tế, nội hàm khái niệm hoà giải rất rộng, không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn ở tầm quốc tế, ở đó, sự hoà giải giữa người Việt và người Mỹ là then chốt.
Sự hoà giải ấy cực kỳ quan trọng bởi vì di sản của cuộc chiến tranh Việt Nam rất nặng nề.
Về phía Việt Nam, cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm, từ 1954 đến 1975, cũng là một trong những cuộc chiến tàn khốc nhất với trên ba triệu người, kể cả thường dân ở hai miền Nam và Bắc, bị thiệt mạng. Số lượng bom và các loại chất nổ thả xuống Việt Nam trong hai mươi năm ấy còn nhiều hơn tổng số bom mìn được sử dụng trên khắp thế giới trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cho đến tận ngày nay, hơn 40 năm sau chiến tranh, những bom mìn ấy vẫn còn là một nguy cơ. Đó là chưa kể các loại hoá chất độc hại, trong đó, đáng kể nhất là chất độc màu da cam, đến nay vẫn ảnh hưởng đến nhiều người.
Di sản nặng nề đến vậy nhưng hầu như bất cứ người sáng suốt và có tầm nhìn chiến lược nào cũng đều thấy rõ một điều: mọi người, từ cả hai phía, đều cần vượt qua quá khứ để cùng hợp tác với nhau nhằm đối phó với những thử thách nghiêm trọng trong hiện tại, trong đó, thử thách lớn nhất là những âm mưu bành trướng của Trung Quốc. Với Mỹ, cũng giống như thời chiến tranh lạnh, Việt Nam lại nằm ở tuyến đầu trong chiến lược chống lại sự bành trướng ấy. Với Việt Nam, âm mưu bành trướng ấy trực tiếp đe doạ đến chủ quyền của Việt Nam trên biển và đảo, thậm chí, có thể cả trên đất liền.
Còn phía Việt Nam thì sao? Nhớ, năm 2000, sau khi Tổng thống Bill Clinton phát biểu với nội dung kêu gọi mọi người cố quên quá khứ thù nghịch giữa hai nước để cùng nhau hướng về tương lai, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu phản đối ngay: Theo ông, người Việt Nam không thể và cũng không nên quên cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc đầy chính nghĩa của mình. Bill Clinton ngơ ngác. Giới bình luận chính trị quốc tế, sau đó, cho bài đáp từ của Lê Khả Phiêu là một sự vụng về, phá hỏng không khí hoà giải mà Bill Clinton muốn mang lại. Trong cuốn Bên Thắng Cuộc, Huy Đức kể lại lời của Phan Văn Khải, nguyên Thủ tướng, lúc chuẩn bị đón tiếp Tổng thống Bill Clinton năm ấy, đại khái: Bộ Chính trị ra chỉ thị là, khi gặp Bill Clinton, ông không được cười! Trong cuộc đón tiếp Tổng thống Barrack Obama vừa rồi, không biết Bộ Chính trị có ra chỉ thị gì không nhưng mặt mày của giới lãnh đạo Việt Nam trông rất thiếu thân thiện. Có vẻ như Việt Nam còn khá miễn cưỡng trong tiến trình hoà giải với Mỹ.
Sự khác biệt trong vấn đề hoà giải thể hiện rõ nhất qua thái độ của nhiều người Việt Nam đối với việc ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị của đại học quốc tế Fulbright Việt Nam. Về phía Mỹ, người ta xem vai trò của Kerrey, một cựu quân nhân từng tham chiến tại Việt Nam, như một bằng chứng của hoà giải. Phía Việt Nam, ít nhất là đối với một số thành phần nào đó, ngược lại, người ta từ chối cử chỉ hoà giải ấy với lý do bàn tay của Kerrey đã từng dính máu trong cuộc chiến tại Việt Nam. Điều đáng nói là cái gọi là thành phần từ chối ấy dường như không phải nhỏ. Một cách công khai, chỉ có một mình bà Tôn Nữ Thị Ninh lên tiếng. Tuy nhiên, việc bài phỏng vấn ông Đinh La Thăng, trong đó, ông ủng hộ việc Bob Kerrey, bị gỡ ra khỏi các báo, cho thấy thế lực từ chối hoà giải tại Việt Nam rất lớn, ít nhất cũng lớn hơn ông Đinh La Thăng, một uỷ viên Bộ Chính trị và là Bí thư Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh.
Tại sao chính quyền Việt Nam có vẻ miễn cưỡng trong tiến trình hoà giải với Mỹ như vậy?
Thực tình, tôi không hiểu.
Leave a Comment