70 năm Cách Mạng tháng 8/1945, sự phản bội của đảng CSVN (phần 2)
*****
4- Các yếu tố giúp đảng CS và Việt Minh thành công trong việc giữ chính quyền:
Có hai yếu tố là chiến lược và chiến thuật.
a- Chiến lược:
Chiến lược này có những bước như sau:
– Thứ nhất là đưa ra nguyên tắc chính trị căn bản: đảng CS độc quyền cai trị. Ngày 11-9-1945, tức chỉ gần 10 ngày sau khi chính phủ VNDCCH ra mắt tại cuộc mít-tinh ở quảng trường Ba Đình, hội nghị Trung ương đảng CSĐD (lúc đó chưa gọi là đảng CSVN) tại Hà Nội đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền điều khiển mặt trận VM, và một mình thực hiện cách mạng. Đảng CSĐD nắm độc quyền mặt trận VM. Mặt trận VM đang nắm chính quyền, cai trị đất nước. Như thế có nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.
– Thứ hai là tiêu diệt mọi thành phần đối lập, theo chủ nghĩa dân tộc. Kế hoạch tiêu diệt thành phần đối lập này được VM gọi là “giết tiềm lực”. Chỉ những ai chịu sự điều động của VM, thì được tồn tại. Còn những ai có năng lực nhưng không hợp tác với VM, dầu không chống đối VM, cũng bị tiêu diệt để loại bỏ những khả năng tiềm ẩn, có thể bất lợi về sau cho VM. Cho đến nay chưa có thống kê đầy đủ tổng cộng số người bị VM sát hại vì lý do chính trị và tôn giáo từ cấp cao nhất ở trung ương và các thành phố lớn, đến cấp thấp ở các làng xã trên toàn quốc, trong giai đoạn từ khi VM nắm quyền năm 1945. Con số phỏng chừng không dưới một trăm ngàn người trên toàn quốc trong cuộc giết tiềm lực của CS. Đây đa số là nhân tài của đất nước, nhưng CS cho là nguy hiểm đối với quyền lực độc tôn của họ.
– Thứ ba là nắm hết ngay tất cả những phương tiện truyền thông, đài phát thanh, các nhà máy in, các cơ sở sản xuất giấy và buôn bán giấy. Báo Cứu Quốc của mặt trận VM trước đây phát hành bí mật, nay ra công khai từ ngày 24-8-1945. Báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận của nhà nước VM, xuất bản số đầu ngày 5-12-1945. Việt Minh thành lập ban chỉ đạo báo chí và văn sĩ, huấn luyện cán bộ tuyên truyền cho chế độ để hướng dẫn quần chúng.
– Thứ tư là áp đặt tính chính danh cho mình. Ngay khi vừa được thành lập, tuy chưa có quốc hội để quyết định, chính phủ VNDCCH vẫn đặt thủ đô tại Hà Nội. Ngày 5-9-1945, bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký văn thư quy định quốc kỳ là “Cờ đỏ sao vàng”, vốn là cờ của mặt trận Việt Minh (lấy tại cờ của tỉnh Phúc Kiến bên Trung Cộng) và bài “Tiến quân ca” của quân đội VM do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác làm quốc ca. Đây là một trong 3 quốc ca man rợ nhất trên toàn thế giới, trong đó có những câu nghe lạnh người, đầy thù hận: “Đường vinh quang xây (bằng) xác quân thù”.
Nền đỏ và sao vàng trên cờ nầy là nằm trong truyền thống cờ của các đảng CS trên khắp thế giới, từ Liên Xô, Trung Hoa đến Đông Âu. Theo tài liệu của CSVN, quốc kỳ và quốc ca của nhà nước VM đã được quyết định tại Đại hội đại biểu quốc dân ngày 16-8-1945 ở Tân Trào.
– Thứ năm: xây dựng nền hành chánh mới. VM ban hành sắc lệnh ngày 5-9-1945 dẹp bỏ toàn bộ hệ thống quan lại cũ ở thành thị cũng như hào lý ở nông thôn, và lập ra những Uỷ ban nhân dân trên toàn quốc theo các cấp xã, huyện, tỉnh, bộ (kỳ). Uỷ ban nầy gồm những cán bộ VM và những người thân VM, trong đó đa số chưa thông thạo công việc hành chánh.
Ngày 8-9-1945, VM lại ra nghị định quy định tổ chức phổ thông đầu phiếu trong vòng hai tháng để bầu cử Quốc dân đại biểu đại hội (Quốc hội lập hiến). Tuy nói là hai tháng, nhưng VMCS tìm cách trì hoãn bầu cử. Mãi đến khi các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, từ Trung Quốc trở về Việt Nam sau thế chiến thứ hai, đòi hỏi quyết liệt, quốc hội lập hiến mới được bầu ngày 6-1-1946. Do sự chỉ định và áp đặt của VM, đa số đại biểu VM và thân VM đắc cử. Chỉ có một thiểu số nhân vật các đảng phái được đưa vào quốc hội. Cựu hoàng Bảo Đại cho biết trong hồi ký Con rồng An Nam: sau khi ra Hà Nội, ông bị đưa đi “nghỉ mát” ở Thanh Hóa. Việt Minh cho người đến mời ông ứng cử. Ông không tranh cử, nhưng lạ lùng là ông vẫn được đắc cử ở Thanh Hóa với số phiếu là 92% cử tri đi bầu. Trong Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã cho các lực lượng đối lập 70 ghế.
– Thứ sáu: Biên soạn luật lệ mới có lợi cho đảng CS. Ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua bản hiến pháp mới, hiến pháp đầu tiên của một nước VN độc lập, gồm 7 chương và 70 điều. Hiến pháp này, so với các HP sau đó, được coi là có phần tiến bộ, bởi lẽ có nhiều đảng phái trong Quốc hội trong thời gian nó được dự thảo. Tuy nhiên, khi nó được thông qua thì các lãnh tụ đối lập với VM bị khủng bố đã rút lui hay bỏ chạy qua Trung Quốc, do đó không còn ai đối lập với VM nữa. Vì vậy, Hiến pháp chưa được chính phủ ban hành, thì ngày 14-11-1946 quốc hội gồm đa số đại biểu VM còn lại, tuyên bố đình chỉ thi hành hiến pháp vừa thông qua.
Thật ra, trong chế độ cộng sản đảng trị, nhà nước chỉ là cánh tay nối dài của đảng và Quốc hội chỉ là công cụ của đảng, chỉ tuân theo những nghị quyết của đảng, thường được gọi là đảng ủy các cấp, từ trung ương xuống địa phương, chứ không theo luật pháp quy định. Nghị quyết là quyết định của một nhóm người (tức các đảng bộ) đưa ra trong một hội nghị, theo từng hoàn cảnh, chủ quan chính trị và quyền lợi của nhóm người đó. Vì vậy, để độc tôn quyền lực, nhà nước VM đã không cần đến hiến pháp 1946 nhằm tránh bị hiến pháp ràng buộc. Còn các HP sau thì luôn khẳng định đảng CS độc quyền cai trị, nên dù trong nội dung có nói đến bộ máy chính quyền thì cũng chỉ là công cụ của đảng, có nói đến nhân quyền và công quyền thì cũng chỉ là bánh vẽ của đảng.
– Thứ bảy: chính trị hóa nền giáo dục. VMCS ngay từ đầu luôn rêu rao rằng nền giáo dục của chế độ nhằm mục đích phục vụ nhân dân, phục vụ công nhân lao động, nhưng đó là trên lý thuyết. Trên thực tế, nó phục vụ chính trị, tức phục vụ chế độ do đảng CSĐD lãnh đạo. Chính sách nầy do thứ trưởng Giáo dục lúc ấy là Nguyễn Khánh Toàn nhập cảng từ Liên Xô. Trong nền giáo dục nầy, chương trình học tập cho học sinh theo đúng lập trường đảng CSĐD, nhất là các môn nhân văn (quốc văn, sử địa, công dân hay chính trị). Chỉ những người có thẩm quyền trong đảng mới được soạn sách giáo khoa và sách giáo khoa được xem là pháp lệnh, không giáo viên nào được giảng dạy ra ngoài sách giáo khoa. Giáo viên, học sinh đều phải “hồng” hơn “chuyên”, tức phải mang tính đảng hơn là khả năng chuyên môn. Với một nền giáo dục như thế, CSVN chỉ đào tạo được những người biết vâng lời hơn là biết suy nghĩ, những thần dân hơn là những công dân. Cộng sản chỉ cần như thế để áp đặt chế độc độc tài toàn trị. Tuy nhiên, chính đó là nguyên nhân suy thoái của Việt Nam ngày nay.
– Thứ tám: Nắm mọi tài lực trong đất nước vào tay đảng. Chúng ta biết rằng trước và sau khi nắm chính quyền hoàn toàn trên miền Bắc năm 1954, đảng Cộng sản đã thực hiện Cải cách Ruộng đất vô nhân đạo làm chết oan hàng trăm ngàn người, bắt nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp, thực thi chính sách kiểm duyệt, quản lý hộ khẩu, phân phối lương thực. Cuộc Cải cách ruộng đất này có 3 mục tiêu: một là thu hết mọi đất đai tài nguyên vào tay đảng, hai là tiêu diệt hết mọi ảnh hưởng bên ngoài đảng, vì trong vụ đó không những có các địa chủ, nông dân tài giỏi mà ngay cả những con người có uy tín ở địa phương cũng bị trừng trị hay giết chết, ba là phá vỡ luân lý ngàn đời của dân tộc, truyền thống văn hóa của Đất nước, để chỉ còn hiện hữu “đạo đức cách mạng”. Đạo đức này tóm gọn trong hai nguyên tắc: 1- mọi cái có lợi cho cách mạng đều là tốt, là thiện (học từ Lê-nin) và 2- cứu cánh biện minh cho phương tiện.
b- Chiến thuật:
Chúng ta thấy đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam –qua chiến lược trên- đã đưa đất nước vào chỗ bế tắc từ vấn đề này sang vấn đề khác và đã dẫn dắt nhân dân đi hết từ thảm họa này tới thảm họa khác, nhưng lại không hề gặp một sự phản kháng nào đáng kể. Điều đó cho thấy Cộng sản có những chiến thuật tinh vi khủng khiếp, một nghệ thuật cai trị vô tiền khoáng hậu.
– Trước hết, đó gieo rắc nỗi sợ hãi cho người dân. Phải khẳng định rằng sự tàn bạo của chế độ và của đảng cộng sản là vô giới hạn. Nhưng điều này không đơn giản có được mà là kết quả của cơ chế khủng bố được áp dụng hay được cho phép của các đảng cộng sản nói chung và đảng cộng sản Việt Nam nói riêng. Cơ chế khủng bố được thực hiện trước hết trong nội bộ đảng ở tất cả các cấp, không giới hạn, kể cả cấp cao nhất. Theo tác giả Nguyễn Vũ Bình, chúng ta thấy nội bộ Quốc tế Cộng sản, nội bộ các đảng cộng sản các nước đều cho phép và duy trì sự khủng bố ngay trong nội bộ. Từ sự cho phép và khuyến khích khủng bố trong nội bộ, tức là những đồng chí với nhau như vậy, khi ra thực hiện các nhiệm vụ bên ngoài, như thực hiện khủng bố đối với người dân và kẻ thù (hoặc đảng đối lập), những lãnh đạo và cán bộ cộng sản không hề run tay và động tâm. Chính sự khủng bố từ trong nội bộ ra tới bên ngoài như vậy khiến người dân nhìn thấy hoặc nghe nói tới cộng sản, đã không còn hột máu nào, nói gì tới phản kháng.
– Hai là thiết lập sự lệ thuộc. Làm cho người dân sợ chưa đủ, các chế độ cộng sản còn thực hiện việc thiết lập sự lệ thuộc hoàn toàn của người dân vào chế độ. Họ thực hiện điều này bằng hai bước. Bước một, bần cùng hóa nhân dân, như bằng cải cách ruộng đất, bằng cải tạo công thương nghiệp (tức đánh tư sản ở miền bắc và miền nam), bằng cách chỉ cho dân có quyền sử dụng chứ không có quyền tư hữu đất đai. Bước hai, xây dựng nền kinh tế kế hoạch, ép người dân vào các nhà máy, xí nghiệp và hợp tác xã. Ép người dân lệ thuộc về kinh tế vào nhà nước là mục tiêu của chế độ để dễ bề cai trị và sai khiến. Điều đó đã xảy ra tại VN trước khi có cái gọi là “đổi mới” vào giữa thập niên 80 của thế kỷ trước. Nhưng dù vậy, tàn dư của kinh tế kế hoạch này vẫn còn nằm trong cái gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế quốc doanh là chủ đạo.
– Ba là kiểm soát tư tưởng của người dân bằng cách xây dựng cơ chế tự giám sát và tố cáo lẫn nhau của chính người dân. CS làm điều này bằng cách xây dựng các tổ chức đoàn thể, các tổ chức ngoại vi, hệ thống mạng lưới an ninh, đặc tình, vv…người dân bắt buộc phải giám sát và tố cáo lẫn nhau. Với cơ chế này, bất kể sự phản kháng nào của người dân đều dễ dàng bị phát hiện và vô hiệu hóa ngay từ trứng nước.
Với sự vận hành và hoạt động của 3 chiến thuật quan trọng này, chế độ cộng sản đã nghiền nát, ngay từ trong suy nghĩ, tới lời nói và hành động phản kháng của người dân để duy trì sự thống trị. Để duy trì một hệ thống khổng lồ bảo đảm sự vận hành của chế độ và sự thống trị như thế, CS phải cần một nguồn lực vô tận. Thế nhưng nhà nước cộng sản đã không thể xây dựng được một nền kinh tế đúng nghĩa tạo ra của cải vật chất, một nền giáo dục tạo ra những công dân tài năng và thiện chí, một nền an sinh tạo ra một xã hội thanh bình hòa hợp.
Trái lại từ 70 năm qua, Cộng sản đã chỉ xây dựng một nền chính trị ngày càng nghẹt thở, một nền kinh tế ngày càng bết bát, một nền văn hóa ngày càng suy đồi, một nền giáo dục ngày càng xuống cấp, một nền an sinh ngày càng tồi tệ và một nền quốc phòng ngày càng bấp bênh. 70 năm qua, CS đã tạo ra những đảng viên cán bộ lộng hành tác oai tác quái, một hệ thống hành chánh tham nhũng đòi hối lộ, những lực lượng công an và quân đội áp bức dân lành một cách thản nhiên, nhiều thầy cô, nhiều học sinh chỉ biết nhắm mắt theo Đảng mà thôi.
Đó là những gì tồi tệ mà đảng CS đã gây ra cho dân tộc VN 70 năm qua, từ CM tháng 8 tới tận ngày hôm nay.
TQT: Thưa Lm Phan Văn Lợi, từ mồng 2 tháng 9 năm 1945, theo Tuyên ngôn Độc lập mà ông Hồ Chí Minh đã đọc, thì nước ta dân ta được độc lập, tự do và hạnh phúc. Vậy thì 70 năm qua dưới chế độ CS, nước ta có được độc lập, dân ta có được tự do hạnh phúc không thưa linh mục?
PVL: Thưa Quý vị, những diễn biến đã xảy ra trong 70 năm qua cho chúng ta thấy nhân dân VN không hề được hạnh phúc. Ngay từ năm 1954, hàng triệu người đã bỏ miền Bắc để vào miền Nam. Ngay từ năm 1975, cũng hàng triệu người, đặc biệt ở miền Nam, đã băng rừng vượt biển liều chết để ra đi tìm một quê hương mới. VN có độc lập hay không? Chúng ta thấy rằng kể từ khi HCM lập ra đảng CS dưới sự chỉ đạo, phù trợ và ảnh hưởng của CS Nga rồi CS Tàu, đất nước VN chúng ta, dù thoát khỏi ách đô hộ của Pháp, lại sa vào một ách đô hộ còn nặng nề hơn, đó là ách đô hộ của CS, nhất là sự khống chế ngày càng siết chặt của đảng CS Tàu. Sự độc lập của VN không bao giờ có cả dưới chế độ CS. Đất nước đã không độc lập, nhà cầm quyền và đảng CS lại càng không độc lập, nhất là bị ràng buộc ngày càng gắt gao và trên mọi phương diện bởi đảng CS Tàu (người Tàu) vốn là kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc VN. Chúng ta thấy ảnh hưởng của Tàu cộng càng lúc càng lớn lao trên đất nước, và người ta sợ rằng một ngày nào đó mảnh đất mang tên VN này sẽ không còn nữa, mà trở thành một tỉnh ở trong nước Trung Hoa vĩ đại, có thể phải trở lại với tên quận Giao Chỉ như trước thời Hai Bà Trưng. Còn tự do ư? 70 năm qua, CS đã tước bỏ mọi tự do của con người và mọi tự do của công dân. Những thứ tự do mà quốc tế, nhân loại văn minh công nhận qua Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, hai Công ước LHQ về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội thì không hề có trên đất nước VN. Nếu có thì chỉ là những cái mà CS ban cho người dân với điều kiện mà thôi. Người dân không có tự do chính trị để bầu ra những người mình mong muốn. Người dân không có tự do ngôn luận để có một nền báo chí độc lập, để có những đảng phái phi cộng sản. Người dân không có tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, không thể có một nền giáo dục độc lập, khỏi bị CS khống chế. Mọi tôn giáo tại VN đều bị đảng CS tìm cách lũng đoạn, biến thành công cụ. Người dân thậm chí không có tự do đi lại. Ai có vấn đề với chế độ, những ai dám lên tiếng phản kháng những bất công, vạch trần những sai lầm và tố cáo tội ác của nhà cầm quyền thì luôn luôn bị rình rập, bị ngăn cản trong việc đi lại, thậm chí bị ngăn cản trong việc làm ăn. Rồi bao nhiêu tự do khác của người VN cũng không có cho tới ngày hôm nay. Rõ ràng đất nước VN trở thành một nhà tù lớn trong đó có rất nhiều nhà tù nhỏ giam các tù nhân chính trị.
TQT: Vậy phải chăng từ mồng 2 tháng 9 năm 1945, một thảm họa mới đã đến với VN, thảm họa của chủ nghĩa CS, thảm họa của đảng CS cai trị đất nước VN trong Đệ Tam Quốc Tế theo chuyên chính vô sản. Và từ ngày đó nhiều người đã nói đó đúng là Ngày Quốc hận của VN, thưa Linh mục?
PVL: Kính thưa Quý vị. Đó không phải là ngày Quốc khánh, ngày toàn dân vui mừng, nhưng đó là Ngày Quốc hận thật sự. Bởi lẽ toàn thể Đất nước bị lâm vào tròng ách của chế độ CS. Lúc ấy mới là một nửa, nhưng rồi tròng ách đó tiếp tục được mở rộng. Qua cuộc xâm lăng VNCH, tròng ách đó đã khoác lên toàn bộ dân tộc VN. Kể từ ngày đó, lịch sử VN đã chuyển hướng, đi vào một khúc quanh, một khúc quanh bi thảm, để lại bao nhiêu hậu quả tai hại về mọi mặt: tinh thần lẫn vật chất, làm cho số phận dân tộc VN điêu đứng và tiền đồ dân tộc VN vẫn còn mờ mịt.
TQT: Để xóa bỏ chế độ độc tài toàn trị này, phải chăng chúng ta nên tin vào một lực lượng nào đó trong đảng CS có thể giúp cho việc đó hay là toàn dân phải đứng lên để làm công việc của mình?
PVL: Hiện nay, có những người đặt vấn đề là mong rằng có những thành phần nào đó trong đảng CS sẽ ý thức về tình tự dân tộc, ý thức lại công lý để trả lại mọi quyền cho người dân. Kinh nghiệm của gần một thế kỷ CS trên khắp thế giới cho chúng ta thấy đó là một ảo tưởng. Tất cả các chế độ CS không bao giờ từ bỏ quyền lực độc tài của họ cả. Họ đã nắm được quyền lực và nhờ đó họ đã có được quyền lợi, có được quyền lợi một cách bất chính. Nếu bỏ quyền lực thì quyền lợi của họ cũng mất và có thể bị người dân đưa ra trước công lý. Cho nên người CS sẽ không bao giờ trả lại mọi quyền cho dân. Người ta nói rằng đảng CS không thể sửa đổi, một phải bị thay thế mà thôi. Cho nên bổn phận của người dân chúng ta, ý thức của người Việt chúng ta là phải làm sao giải thể hoàn toàn cái chế độ CS này, làm cho đảng CS không còn có thể thực quyền lực tung hoành trên đất nước. 70 năm qua chứng tỏ đảng CS hoàn toàn bất lực, hoàn toàn bất nhân, hoàn toàn bất công. Cho nên đảng CS phải ra đi, để đất nước chúng ta có một bộ dạng mới, tự do hơn, dân chủ hơn, đầy các quyền con người và quyền công dân hơn.
TQT: Xin cảm ơn Linh mục Phan Văn Lợi.
PVL: Xin cảm ơn Anh và Quý khán thính giả đã lắng nghe chương trình. Xin được nói thêm rằng của chúng tôi hôm nay có tham khảo bài nghiên cứu của học giả Trần Gia Phụng cũng như của anh Nguyễn Vũ Bình. Tôi xin cảm ơn hai vị đó.
Leave a Comment