Tiếng hát của tử thần đã chiếm lĩnh những con đường đi về nơi đất nước.
(Cánh Thiên Nga – Tagore)
Bốn mươi năm trước, trong giờ khắc hấp hối khi quân đội miền Nam đã tan vỡ, dinh Độc Lập đã thất thủ thì ngôi trường thiếu sinh quân nhỏ bé tại Vũng Tàu vẫn đứng vững, oanh liệt giữa tiếng súng kháng cự trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam. Nhắc lại câu chuyện này tôi muốn mở đầu một chuỗi những mẩu chuyện về cách hành xử đáng kính của những người trẻ trong các tình huống vô vọng mà tôi cho đó là nhân cách, là di sản của dân tộc Việt. Một điều mà chúng ta phải nhìn nhận là trong xã hội hiện nay di sản đó đang tiêu hao, mòn mỏi từng ngày.
Như thường lệ, hai thiếu sinh quân lớp lớn đã tiến ra trước sân cỏ. Các thiếu sinh quân tuổi từ tám đến mười bảy tập họp thành hai tiểu đoàn. Tất cả đứng nghiêm trước cột cờ, bắt súng chào và làm lễ hạ Kỳ đúng theo lễ nghi quân cách. Đó là buổi lễ chào cờ cuối cùng, các em hát quốc ca với những khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Vừa mới hôm qua, dưới ngọn cờ này các em đã được học tập, được đào tạo để mai kia trở thành những người lính sẵn sàng ngã xuống dưới ngọn cờ để bảo vệ tổ quốc. Hôm nay mọi việc đã đổi thay! Không ai có thể biết tâm trạng của các em lúc đó ra sao? Khi bài hát chấm dứt và khi lệnh tan hàng của một em liên lớp 12 ban ra, thình lình những đứa trẻ oà lên khóc, rồi cứ thế chúng ôm lấy nhau khóc nức nở !
Cùng lúc đó ở ngoại quốc, bản tin về Sài Gòn thất thủ đến với các sinh viên VN du học như sét đánh ngang tai. Chị Bùi thị Bạch Phượng một du học sinh tại Đức đã chia sẻ trong một bài viết của chị: “Tin khủng khiếp đến lúc trời còn tờ mờ tối, sau một đêm khắc khoải, mất ngủ vì lo âu. Hồn tôi chơi vơi trong một khoảng không nào đó, đôi bàn chân hình như đã lìa mặt đất, đầu óc trống trải, mông lung. Ðến sáng hôm sau, bọn chúng tôi vào giảng đường đại học, tìm chút hơi ấm từ bạn bè cùng chí hướng, nhìn nhau trong ngấn lệ, không biết chảy ra tự lúc nào”.
Miền Nam mất, những sinh viên du học như những đứa con côi cút mất lối về. Giấy thông hành của họ do chính phủ VNCH cung cấp coi như hết hiệu lực, tất cả đều phải xin thông hành tị nạn. Nhiều sinh viên ở Đức, ở Pháp đã kể lại cảm giác đau thương khi phải cầm cuốn sổ thông hành mới với hàng chữ “Vô tổ quốc”. Tuy nhiên, những người trẻ bơ vơ này chưa bao giờ coi mình là những người vô tổ quốc. Mỗi năm, vào dịp 30/4 các sinh viên này đã họp nhau lại, cùng thức sáng đêm để đi dán bích chương. Cùng nhau tổ chức những đêm không ngủ và những buổi hội thảo về tình hình đất nước, về thảm trạng thuyền nhân…
Ông Võ Văn Kiệt có câu nói nổi tiếng về ngày 30/4: “có triệu người vui mà cũng có triệu người buồn.” Tuy nhiên, trong triệu người buồn đó, đa số đã ôm hy vọng và ước mơ về một cuộc sống mới thanh bình và tốt đẹp hơn cho người dân cả hai miền bởi chiến tranh đã kéo dài quá lâu. Nhưng thực tế diễn ra sau đó hoàn toàn ngược lại, thảm trạng của thuyền nhân, tù cải tạo, kinh tế mới và cả một thế hệ thanh niên bị đẩy vào cuộc chiến vô vọng bên Cam Pu Chia…Tất cả những thảm cảnh trên không ngừng ray rứt tâm trí của người Việt tha hương. Ngay đến tận ngày hôm nay sau 40 năm, sự gắn bó sâu nặng với đất nước của đa số người Việt vẫn được nhìn thấy qua sinh hoạt thường ngày: sống ở nước ngoài người Việt vẫn theo dõi tin tức tại VN, đau với cái đau của người dân mất đất, nhục với cái nhục khi giàn khoan của Trung Quốc nghênh ngang kéo vào lãnh hải. Ông Hoàng Thu, một người Việt ở Florida đã tự thiêu để gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh đồng bào mình về hiểm hoạ xâm lược. Ngày 20/6/2014 người đàn ông này qua đời để lại mảnh giấy tuyệt mệnh với hàng chữ: “Hai Yang 981 phải rời khỏi V-N hải phận”.
Là một thanh niên trẻ với bầu nhiệt huyết và niềm khao khát được dấn thân cho quê hương, Trần Văn Bá tin rằng những chuyển đổi đất nước chỉ có thể phát xuất từ Quốc Nội, anh tham gia lực lượng “Mặt Trận Thống Nhất các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam” và xâm nhập về Việt Nam. Anh bị cộng sản bắt và bị tử hình vào ngày 8/1/1985. Điều cuối cùng bạn bè còn giữ lại là những suy tư anh viết trong thư gởi về Paris năm 1982: “ …Phần tôi cũng bình thản thôi, cực thì có, nhưng tôi sống trọn vẹn với con người của tôi, với quê hương nghèo đói. Con đường tôi chọn rất chông gai, nhưng dù sao tôi cũng phải đi tới cùng…”
Tại Nhật, sinh viên Ngô Chí Dũng khi ấy mới 24 tuổi, anh là con chim đầu đàn của Uỷ Ban Tranh Đấu Cho Tự Do Của Người Việt. Sau khi miền Nam mất, trong tình cảnh hoang mang cực độ của hầu hết các sinh viên du học tại Nhật, Ngô Chí Dũng đã cùng một số anh chị em sinh viên làm việc ngày đêm để tranh đấu thành công hai vấn đề bức thiết quan trọng lúc ấy. Thứ nhất là chính quyền Nhật đồng ý gia hạn chiếu khán cho các kiều bào ta và các sinh viên đang sinh sống tại Nhật, thứ hai những sứ quan Pháp, Bỉ, Anh và Hoa Kỳ… đã hứa cấp chiếu khán cho bất cứ ai muốn đến các quốc gia này định cư. Cùng với các sinh viên du học tại Nhật, Ngô Chí Dũng đã tích cực giúp đỡ những gia đình thuyền nhân trong các trại tị nạn. Anh tốt nghiệp nghành Kỹ Sư Hoá Học thuộc Viện Đại Học Meisei tại Tokyo năm 25 tuổi. Nhưng cũng như Trần Văn Bá, Ngô Chí Dũng tin rằng sự chuyển đổi đất nước chỉ có thể xảy ra tại môi trường Quốc Nội và với cái quan niệm rằng muốn giải quyết vấn đề của đất nước thì chính mình phải nhập cuộc, chính mình phải đi đầu. Anh bỏ lại cuộc sống êm đềm và một tương lai đầy hứa hẹn ở Tokyo để trở về với quê hương. Anh tham gia “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” và hy sinh trên đường công tác.
Cái gọi là “Chiến thắng 30/4/75” đã từng làm cả thế giới phải cúi đầu nể phục một dân tộc anh hùng. Trong niềm “hân hoan” của chiến thắng ngày ấy, không một ai có thể tưởng tượng một dân tộc hào hùng, bản lĩnh lại có thể cam tâm chịu nhục như ngày hôm nay. Một quốc gia độc lập với một quân đội hùng mạnh mà từ lãnh đạo đến tướng tá đều câm lặng, khuất phục nhìn từng phần chủ quyền của đất nước bị tước đoạt, bị mất trắng, mất đau đớn trong các hiệp ước với Bắc Kinh… Thử hỏi một cuộc duyệt binh vĩ đại mừng 40 năm chiến thắng, với 6000 người tham dự cùng các lực lượng võ trang và các khí tài hiện đại như lời Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa thì có ý nghĩa gì? chỉ thấy bật lên một niềm đau có chiến thắng nào cay đắng đến vậy? Sau cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, hàng ngàn những vành khăn tang đã chít trên mái đầu vợ con của người lính miền nam, hàng ngàn những thanh niên miền bắc ra đi không trở lại, giấy báo tử rơi đầy mái rạ; chỉ để đổi lấy một đất nước đói nghèo lệ thuộc, tụt hậu, lầm than…
Leave a Comment