Quảng Cáo

Lũ lụt trong những tâm hồn thơ xứ Quảng (2)

Quảng Cáo

Theo suốt chiều dài lịch sử Quảng Nam, từ những ngày xưa xa lắm, thời những người Việt đầu tiên đáp lời kêu gọi của vua Lê Thánh Tôn “mang gươm đi mở cõi” ở các vùng đất vừa chiếm được. Ngoài trừ một số rất ít đi xa hơn vào miền Nam, hầu hết đều dừng lại ở Quảng Nam, chọn nơi này làm quê hương, để được sống và được chết trên vùng đất hiển linh nhưng cũng mang một nỗi buồn cho định mệnh đầy cay nghiệt của mình:

Còn ở đó màu da vàng thượng cổ

Tổ tiên tôi từ sơ thủy vốn buồn
Hai bàn tay đã đào sâu lòng đất
Trồng muôn ngàn cây sai trái tình thương.
(Còn ở đó, Nguyễn Nho Sa Mạc)

Làm bà mẹ Việt Nam đã là khổ rồi mà mẹ Quảng Nam thì sẽ khổ hơn chút nữa. Nhiều người cha Quảng Nam phải bỏ làng xóm vào nam tìm kế sinh nhai, mỗi năm về thăm vợ con chỉ một hai lần. Mẹ Quảng Nam ngoài chịu đựng cô đơn, trống vắng, dải nắng dầm mưa, còn phải trồng trọt trên mảnh đất cằn khô xứ Quảng, còn phải mỗi đêm “ngồi nghe máu nhỏ xuống bàn tay khô”. Nhưng dù bàn tay có đau nhức bao nhiêu mẹ vẫn bám lấy đất Quảng Nam, để sống và cũng để đợi chờ:

Hôm nay tiếng súng không còn nữa

Sông núi ngùi thương chuyện núi sông
Con biết quê nhà sau khói lửa
Mẹ già tựa cửa đứng chờ mong.

Lụa có vàng như thuở thái bình

Vườn ta còn mấy ngọn cau xanh
Đất khô tay có đau không mẹ
Cha vẫn ngâm nga khúc viễn hành.
(Thư gởi mẹ, Tạ Ký)

Hai nhà thơ xứ Quảng không hẹn hò nhau, qua đời cách nhau gần 20 năm mà có hai câu thơ rất đúng ý nhau như hai đứa con cùng an ủi một người mẹ khổ đau, “hai bàn tay đã đào sâu trong đất” và “đất khô tay có đau không mẹ”.

Các điểm đặc thù của xứ Quảng, nổi bật nhất vẫn là viết về những địa danh, thể hiện rất rõ nét trong thơ của những nhà thơ sinh ra trên mảnh đất khô cằn sỏi đá này. Họ đưa vào thơ không phải chỉ là những hình ảnh bến bờ thơ mộng, núi non hùng vĩ nhưng đôi khi chỉ là những củ sắn, củ khoai, trái bòn bon, khung cửi, con thoi, con kén.

Họ đưa vào thơ không chỉ những nơi chốn rất thơ, rất tình, đọc lên rất êm tai như Trà Mi, Nghi Hạ, Giao Thủy, Thi Lai, Hà Mật mà còn cả những Hòn Kẽm Đá Dừng, Chèo Bẻo, Dùi Chiêng, Châu Nhí, Cà Tang, Đông Bàn, Cẩm Lậu “nghe rất lạ nhưng vô cùng thân thiết”. Ngôn ngữ họ dùng đơn giản và dể hiểu như tấm lòng của họ, nói như nhà thơ Hoàng Phong Linh “Người Quảng không đeo mặt nạ”. Nếu thiếu những cái bình thường và đơn giản đó họ không còn nhà thơ xứ Quảng nữa:

Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc

Tình cheo leo cao vút một con đèo
Núi Chèo Bẻo vươn mình trong khói đục
Hòn Cà Tang thương nhớ vọng tình theo.
(Trung Phước ơi, Tạ Ký)

Tôi đứng trên cầu ráng đỏ chân mây

Bên kia sông vùng tuổi thơ mất dấu
Tìm hòai đâu ra Đông Bàn Cẩm Lậu
Thi Nhơn, Phú Lộc cũng đã thay tên

Tôi đứng nơi đây hồn xuống chiều lên
Khóc cuộc đời mình như thuyền đã đắm
Chưa về làng xưa vinh quy áo gấm
Nay khoe làm gì chiếc áo tù nhân.
(Câu Lâu ngày về, Hoàng Định Nam)

 

Chè bắp Cẩm Nam – ngọt môi con gái
hương cao lầu ấm dạ khách viễn phương
Hội An ơi từng tên quán bên đường
từng con hẽm trong lòng ta sống lại.
(Hội An, nỗi nhớ trong ta, Dư Mỹ)

 

Phố Hội ơi chiều nay xa vời vợi
Cho tôi xin một chút nắng quê nhà
Để đời tôi được một phút thăng hoa
Được sống thở như ngày tôi mới lớn.
(Nhớ Phố Hội, Lê Văn Bá)

Thơ ca gắn liền vào đời sống tinh thần của người dân Quảng từ bao giờ, ngay cả theo giáo sư Nguyễn Văn Xuân cũng không biết chính xác. Chắc hẳn là lâu lắm. Hình ảnh quê hương thân yêu ảnh hưởng sâu đậm trong hồn thơ của hầu hết nhà thơ xứ Quảng. Dòng sông Thu Bồn, có lẽ không khác sông Vàm Cỏ trong Nam, sông Hồng ở Bắc bao nhiêu, nước vẫn là nước, bờ vẫn là bờ, ghe thuyền vẫn ghe thuyền xuôi ngược, thế nhưng, qua thơ của các nhà thơ xứ Quảng, những rặng tre, dòng nước, chiếc ghe đã trở thành thánh tích.

Bàng bạc trong thơ họ là hình ảnh của đình làng, thôn xóm, bóng đa già đã một thời che nắng che mưa. Nhà thơ xứ Quảng nào cũng ít nhất đôi ba lần viết về những địa danh mà họ đã từng ghi dấu chân trong đời bằng ngôn ngữ vô cùng thân mật như tâm sự với chính mình trong đêm không ngủ được. Hãy nghe các nhà thơ về thăm Hội An. Trước cuộc chiến:

Ðêm. trở lại, mưa sa mù Phố cũ

đường hoang vu thao thức ánh đèn vàng
dáng âm thầm muôn thuở của Hội An
bước khe khẽ sợ phố phường thức giấc

gió tha thướt vỗ trăm lời thân mật
mừng ta về thăm lại ấu thơ xưa
lặng nhìn nhau, Phố đã nhận ra chưa?
ta vĩnh viễn một thằng con bất hiếu

thân phiêu bạt, giờ đây lòng trải chiếu

bước bâng khuâng xin thâm tạ ơn đời
ba mươi năm hồn thả sợi tình lơi
bao giờ buộc đời ta vào với Phố?
(Luân Hoán, Đêm Mưa Về Hội An)

Và như người học trò tóc bạc trở về trường sau cuộc chiến:

Đứa trẻ bạc đầu hí hoáy làm thơ
đọc cho ghế bàn thưởng thức
trong thinh lặng dường như cuối lớp
mắt ai thăm thẳm đang nhìn

Con sông Hoài sóng vỗ đến lặng im

ông nghe tỏ bằng đôi tai nghễnh ngãng
nghe cả tiếng thầy cô trên bục giảng
tiếng rêu phong mái ngói chùa Cầu.
(Họp mặt lớp, Nguyễn Hàn Chung)

Bối cảnh chính trị đầy bất trắc đã đẫy nhiều người dân Quảng ra khỏi quê hương thân thuộc như một bầy chim tản mát bốn phương trời. Như những con nước dù trôi đi xa nhưng vẫn hằng đêm mơ về chân cầu cũ, thơ của họ, vì thế, không phải chỉ là tiếng lòng riêng của tác giả mà còn là tiếng kêu trầm thống của quê hương khổ đau, nơi mà nhà văn xứ Quảng Lôi Tam gọi là “chiếc nôi”:

Rồi vời vợi trong ký ức còn có hình ảnh con đường cũ, mái trường xưa …. Tất cả quyện quấn, đan kết thành chiếc nôi êm ái. Chiếc nôi (mà chúng ta vẫn gọi là quê hương) đó không là bảo vật dành cho một vài cuộc đời. Nó có đó từ nhiều nghìn năm trước và sẽ phải còn đó cho muôn nghìn năm sau” .

Cuộc sống nơi quê người dù trong cảnh nệm ấm chăn êm hay còn nhiều khó khăn, trắc trở, những người cầm bút xứ Quảng vẫn không bao giờ quên nghĩ về, nhớ về và viết về tổ ấm quê hương. Trong hành trang thơ ca của các nhà thơ xứ Quảng còn có cả con nước dâng cao, có mùa lũ lớn, có cả nỗi đau không khác gì nỗi đau của những người còn ở lại:

 

Gởi
Sau, trận lũ quê nhà
Chút mai nắng ấm
Chút hòa thuận mưa
Chút gió nồm, giữa ban trưa
Chút hương khói buổi giao thừa đầu năm.
(Gửi, Sau, Trận lũ quê nhà, Xuyên Trà)

 

Tin bão tới làm họ xốn xang lo lắng tưởng như nước đang dâng đâu đó bên kia đường. Giọt nước mắt nhỏ xuống trong cơn mưa ở Cửa Đại, ở Trà Mi, Tam Kỳ cũng nhỏ xuống ở Boston, San Jose, Dallas. Giọt nước mắt trong dòng thơ Quảng Nam xa xứ vẫn là nước mắt Việt Nam đang hòa chung vào nỗi khổ đau của hàng triệu đồng bào bất hạnh ở quê hương:

Những tiếng kêu như xé nát lòng ta

Thốn tận tim gan như lời trách móc
Ta nghe như tiếng ai đang khóc
Đầu ta đau như ai bửa làm đôi
Đôi mắt mờ đau xót nghẹn lời
Bà con ta bên kia màn trời chiếu đất.
(Quê nhà lũ lụt, Phan Xuân Sinh)

Những con nước nhỏ dưới chân cầu Vĩnh Điện, Câu Lâu, Bà Rén, đã theo ngã Hàn giang, Cửa Đại mà trôi ra biển lớn. Nhưng không phải vì thế mà tan loãng trong đại dương bát ngát như hàng triệu con nước khác. Trái lại, những giọt nước Thu Bồn ngày xưa, vẫn hẹn một ngày bốc thành hơi, bay về tưới mát ruộng đồng xứ Quảng thân yêu đã nhiều năm đại hạn.

Tiếng kêu từ thượng nguồn sông Thu giữa tháng Mười mưa lũ như vẫn còn vang vọng trên mỗi chặng đường của những nhà thơ xứ Quảng ở phương xa như người con trai Quảng Nam Trầm Tử Thiêng một lần đã viết trong nhạc phẩm Từ tiếng hát tiếp nối của anh “lời dân ca lai láng tình quê, đời phiêu du đôi lúc ta lắng nghe, bàn chân đi lòng vẫn mong về”:

Đời lá rách lá lành thường lặp lại

đất Quảng Nam chờ lũ lụt hàng năm
bao tấm lòng quay về từ cửa Đại
trong trái tim mưa nắng cũng thăng trầm.
(Mưa lũ quê nhà, Mạc Phương Đình)

 

Sông nước theo mùa đông lũ lụt
quê nghèo xơ xác tiếng đau thương
trăm năm cánh én bay đi mất
bỏ lại tình em như khói sương
(Cơn mưa nhớ nhà, Thái Tú Hạp)

 

Về đến quê nhà nhớ cố hương
Bờ dâu, ruộng lúa, nắng sau vườn
Làng đâu? Dòng nước soi bờ lở
Biền biệt quê nhà xa cố hương.
(Trước khi đi xa, Thành Tôn)

 

Buổi ta đi khói sóng mờ sông lạnh
Nghe âm vang tiếng đất gọi ta về
Có bóng ai đứng dưới vòm mưa tạnh
Mắt ươm buồn phảng phất cả trời quê.
(Buổi ta đi, Vũ Đình Trường)

 

Bên kia bờ Thái Bình Dương
Tre xanh lúa ngát quê hương một trời
Mưa buồn chi lắm mưa ơi!
Trời mưa không giọt mưa rơi trong lòng.
(Cung Diễm)

Những ngày cuối năm mưa phùn gió bấc

dòng sông Hàn nước đục, lục bình trôi
bên kia phố có mắt hiền mộng mị
nụ cười em tôi lặng lẽ đi tìm.
(Mưa ở Đà Nẵng, Đặng Hiền)

Như nhà thơ Phùng Quán viết:” Có những phút ngã lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”, tổ tiên xứ Quảng hẳn đã nhiều lần vịn thơ đứng dậy. Thơ là những cành hoa mọc lên từ nỗi khổ đau và thơ cũng là dòng nước mát nhỏ xuống cánh đồng Quảng Nam nức nẻ. Từ những câu ca dao, những điệu hò khoan tình tứ xa xưa cho đến những cách làm thơ rất mới hôm nay, lũ lụt vẫn sẽ còn đó trong thơ của những nhà thơ Quảng Nam như số phận của những con người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất hiển linh những cũng đầy khắc nghiệt này.

 

 

 

Quảng Cáo
Bài Liên Hệ
Leave a Comment
Quảng Cáo
WordPress Appliance - Powered by TurnKey Linux