Trong những cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm lược từ 2011 đến gần đây, sau khi bị xô, đạp, đẩy, và chở về các đồn công an, những người biểu tình hầu như luôn luôn nhận được một thông điệp từ các “chiến sĩ công an” cấp cao hơn với tông điệu bảo ban của những người con trưởng, rằng: “Anh/chị bày tỏ lòng yêu nước 1 lần như thế là tốt rồi. Bây giờ về nhà, đừng biểu tình nữa. Đây là chuyện lớn, phải để cho Đảng và Nhà nước lo.”
Lúc đầu, khi nghe câu nói này, người nghe, dù nhiều hay ít, cũng có ấn tượng chắc lãnh đạo phải có chủ mưu hay kế sách gì đó thì công an mới dám mạnh miệng như thế chứ. Thậm chí, khi mới có tin giàn khoan HD981 vào thềm lục địa Việt Nam, có nhà dân chủ đã khuyên bà con hãy để cho lãnh đạo có thời giờ đối phó đi đã, rồi nếu không thấy gì thì người dân hẵng tự phát phản đối. Nghĩa là một chính phủ thì dù giỏi hay dở đều phải có kế sách về những chuyện như thế, vì vấn nạn Biển Đông kéo dài đã bao năm rồi. Và nhiều người đã chờ …
Nhưng càng chờ, thì kế sách đâu chẳng thấy, mà người dân càng thấy cách hành xử của Đảng và Nhà Nước ta giống y như cách hành xử của Liên Xô thời chiến tranh lạnh. Thời ấy, những người sống tại các tiểu quốc thuộc Liên Xô, đặc biệt là các khoa học gia gốc Do Thái, xin đi sống ở nước khác hay ngay cả chỉ đi thăm nước khác, đều bị cấm ngặt hoặc bị tống giam ngay. Lý do chính thức Nhà nước Liên Xô đưa ra là vì sợ những người này tiết lộ bí mật quốc gia. Cả thế giới bên ngoài Liên Xô đều, dù nhiều hay ít, tin đó là lý do thật. Mãi đến khi có vài người trốn thoát đi được và đặc biệt sau khi Liên Xô sụp đổ, cả thế giới mới vỡ lẽ: bí mật lớn nhất của Liên Xô là tình trạng trống rỗng đằng sau lớp vỏ nhiều màu sắc trong mọi lãnh vực, từ kinh tế đến quân sự đến cả khoa học không gian.
Cũng vậy, cả người Việt và giới quan sát quốc tế đang từ từ nhận ra điều bí mật lớn nhất trong đối sách của đảng và nhà nước hiện nay là KHÔNG BIẾT LÀM GÌ CẢ. Hay nói cho đúng hơn, lãnh đạo đảng thấy con đường nào cũng có thể làm lung lay chiếc ghế cai trị của mình nên hay nhất là LÃNH ĐẠO CẤP THƯỢNG TẦNG KHÔNG LÀM GÌ CẢ, mà đẩy cho cấp tỉnh (như Đà Nẵng), cấp ban ngành (như Hội nghề cá), và ngay cả chờ nước khác (như Nhật, Philippin, Australia, Mỹ) làm giùm.
Rõ ràng trong suốt nhiều năm qua, lãnh đạo đảng chỉ làm duy nhất có một việc là nài nỉ Bắc Kinh qua các cuộc họp song phương, với kết quả từng mảng chủ quyền cứ lần lượt biến mất: Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, hàng trăm ngàn cây số vuông vùng biên giới phiá Bắc bao gồm nhiều cao điểm quân sự, rừng biên giới, rừng đầu nguồn, Nóc nhà Đông Dương dưới danh nghĩa khai thác bauxite … và trên biển từ đảo đến quyền đánh cá đến tài nguyên dưới lòng biển đến hải phận, …. Trong lúc đó đất nước ngày càng lệ thuộc Trung Cộng ở nhiều mặt khác, từ thực phẩm độc hại lan tràn khắp đất nước đe dọa nghiêm trọng sức khoẻ của dân chúng, đến các trò thu mua để phá hoại nền nông nghiệp Việt Nam, đến tình trạng khuynh loát thị trường đấu thầu với tay trong hối lộ tham nhũng, … Điều đã khá rõ hôm nay là Bắc Kinh tận dụng các cuộc đàm phán song phương (không cho các nước khác ảnh hưởng) để dễ dàng đẩy tới liên tục kế hoạch xâm lược tiệm tiến. Còn Hà Nội vì không biết làm gì khác và quá tin vào 16 chữ vàng nên cứ mỗi lần thấy bước xâm lược mới thì lại la toáng lên yêu cầu ngồi xuống … đàm phán song phương. Lãnh đạo Tàu lại chậm rãi, mỉm cười ngồi xuống đàm phán. Thế là lãnh đạo ta lại an tâm.
Tại điểm này, có lẽ cũng cần nói thêm về mấy cái tàu ngầm Kilo mà cách đây không lâu báo chí đưa tin là để phòng thủ chống Trung Cộng. Nhìn cái giá 2 tỉ mỹ kim và bức hình chụp cảnh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm tàu, nhiều người đã ái ngại lo âu: “Bên trong còn loang lổ, rỉ sét như thế thì vỏ tàu còn rệu rạo đến thế nào nữa? Không lẽ đây chỉ là lập lại vụ mua tàu chiến phế thải của Ukraine?”
Nỗi lo âu này nay đang hiện rõ là thực tế. Đã có chỉ dấu các tàu ngầm này chẳng khá gì hơn cái ụ nổi của Vinalines – cái ụ đã góp phần tạo bản án tử hình của ông Dương Chí Dũng. Có người còn gọi đấy là 2 cái tàu “chìm” Kilo – vì đã “ngầm” quá lâu và không trồi lên nữa.
Cũng có dòng phân tích sâu hơn cho rằng lãnh đạo Việt Nam không có ý định mua tàu ngầm để hù Bắc Kinh vì chính Bắc Kinh cho mượn ngoại tệ để mua. Lãnh đạo VN cũng biết là Bắc Kinh, với tay chân len lỏi trong guồng máy quân đội, dư biết về tình trạng của 2 cái ụ “không nổi” này. Do đó, 2 vũ khí tuyên truyền rỉ sét giá 2 tỉ mỹ kim này chỉ dành riêng cho người dân Việt Nam.
Nhưng điều mà nhiều người cho là ác độc khi lãnh đạo đảng cứ hô hào, thúc đẩy ngư dân tay không ra khơi “bám biển” như thể đảng rất thiết tha với chủ quyền hải phận tổ quốc. Khi những người Việt can đảm này bị đủ loại tàu thuyền của Trung Cộng đâm, bắn, đánh thì không thấy bóng dáng hải quân Việt Nam đâu cả. Khi họ bị Trung Cộng bắt giữ như 6 ngư dân vào khoảng đầu tháng 7/2014, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao lại phán một câu rồi toàn ban lãnh đạo đảng chỉ biết đứng nhìn. Nhưng khi có người nào thoát chết về đến bờ, lãnh đạo lại đến phát bằng khen rồi khuyến khích bà con nên noi gương họ ra khơi “bám biển”. Trong khi đó, Hải quân Việt Nam không những kiên quyết “bám bờ” hiện giờ mà Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh còn hứa trong tương lai cũng sẽ tiếp tục “bám bờ” như vậy, qua lời tuyên bố tại Sangri-La rằng chính phủ của ông xem chuyện tại Biển Đông, bao gồm từ việc đặt giàn khoan đến giết, bắt ngư dân Việt Nam, chỉ là chuyện lục đục nhỏ trong gia đình. Nghĩa là không đáng cho hải quân Việt Nam can dự vào.
Với khả năng quân sự quá yếu kém sau giấc ngủ dài với lời ru “16 chữ vàng và 4 tốt” đó, thế giới cũng rất ngạc nhiên khi thấy lãnh đạo Việt Nam từ chối mọi cách chống xâm lược khác. Cho đến nay, nếu tổng hợp các điểm chính trong đối sách mà lãnh đạo đảng đã tuyên bố, người ta chỉ thấy: (1) Quyết không kiện TQ ra tòa án quốc tế; (2) Quyết không liên minh với ai để phòng thủ chung Biển Đông; (3) Quyết chỉ đàm phán song phương với TQ như đã làm bao năm qua. Cả 3 cái “quyết” trên cột lại trở thành QUYẾT KHÔNG LÀM GÌ HẾT. Và kinh người hơn nữa, 3 quyết đó rất đúng với chỉ thị “4 không được” do Bắc Kinh tung ra ngay trước khi sứ giả Dương Kiết Trì đến bảo ban các lãnh đạo Việt Nam, những người mà họ thẳng thừng gọi là mấy đứa con hoang đàng.
Thế là các lãnh đạo cao nhất, tứ trụ, sau một thời gian dài im lặng, nay chỉ nói chứ không dám ra văn bản; chỉ nói nho nhỏ với vài tổ cử tri chứ không dám dùng các diễn đàn quốc gia; và cũng chỉ nói những câu bâng quơ để ai muốn diễn dịch sao cũng được. Ông Nguyễn Tấn Dũng, sau câu nói mạnh tại Philippines đã vội ôm thắm thiết Dương Khiết Trì để tạ tội và từ đó đến nay không dám nói thêm gì nữa. Trong khi đó, báo đài hết lời khen ngợi đó là chính sách kiềm chế, khôn ngoan, dũng cảm, linh hoạt, yêu hòa bình, v.v.
Chỉ có một việc có vẻ lãnh đạo đảng nhanh chóng làm ngay là các khóa học tập cho tập thể đảng viên. Để trấn an nội bộ và để biện minh cho kế sách QUYẾT KHÔNG LÀM GÌ HẾT kể trên, lãnh đạo nay muốn thuyết phục cả đảng hãy cùng sợ Bắc Kinh để sống còn. Các giảng viên nói rất thẳng thừng: (1) Đụng trận với Trung Quốc là thua; (2) Phải sợ Trung Quốc thì mới giữ được chế độ; (3) Mỹ mới là kẻ thù lâu dài; còn Trung Quốc tuy có khó khăn trước mắt nhưng vẫn là đồng minh dài lâu.
Một vài cán bộ cao cấp còn thố lộ riêng với gia đình rằng thế hệ lãnh đạo đảng hiện nay than thở họ bị trói tay vì những ký kết của các thế hệ lãnh đạo trước suốt từ Hội Nghị Thành Đô 1990 đến những năm gần đây. Và nay họ không thể làm gì khác ngoài việc thực thi những ký kết đó.
Hậu quả đau đớn là nay ngay cả việc Quốc Hội Việt Nam ra một nghị quyết chính thức về tình trạng xâm lấn của Bắc Kinh tại Biển Đông, lãnh đạo đảng cũng không dám làm vì sợ Bắc Kinh nổi giận. Chỉ khi Quốc Hội Nhật, Thủ tướng Úc, và Quốc Hội Mỹ ra nghị quyết, tuyên bố phản đối hành vi ngược ngạo của Bắc Kinh, thì báo đài Việt Nam mới dám in và vỗ tay.
Có lẽ đã đến lúc Ban Tuyên Giáo nên yêu cầu công an điều chỉnh thông điệp cho chính xác khi dạy dỗ những người biểu tình yêu nước: “Anh/chị bày tỏ lòng yêu nước 1 lần như thế là tốt rồi. Bây giờ về nhà, đừng biểu tình nữa. Đây là chuyện lớn, phải để cho Đảng và Nhà nước … khác lo!” ./.
Leave a Comment